Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự
1. Cấu thành tội phạm là gì?
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự. Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ bốn yếu tố: Yếu tố khách thể, yếu tố chủ thể, yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan:
Đặc điểm của cấu thành tội phạm:
– Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của một tội phạm cụ thể. Các dấu hiệu đấy phải phản ánh đúng bản chất của tội phạm cụ thể, phải có tác dụng phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
– Cấu thành tội phạm phải có những dấu hiệu bắt buộc. Dấu hiệu bắt buộc gồm dấu hiệu bắt buộc chung của tất cả mọi cấu thành và dấu hiệu bắt buộc riêng của từng cấu thành tội phạm cụ thể:
+ Dấu hiệu bắt buộc chung gồm hành vi, lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, độ tuổi.
+ Dấu hiệu bắt buộc riêng bao gồm những dấu hiệu phản ánh bản chất riêng biệt của tội phạm cụ thể như lợi dụng chức vụ, quyền hạn, dấu hiệu làm nghề nhất định như kinh doanh trái phép, dấu hiệu địa điểm qua biên giới…
– Các dấu hiệu trong cấu tội phạm phải được Luật Hình sự quy định trong điều luật cụ thể nói lên đặc điểm riêng biệt của tôi phạm dùng để định tội cũng như để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Tội phạm và cấu thành tội phạm rất gần nhau, nhưng tác dụng nhận thức và thực tiễn khác nhau. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm, có tác dụng định tội cho tội phạm xảy ra và để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Nếu chỉ dừng lại ở nghiên cứu tôi phạm mà không nghiên cứu cấu thành tội phạm thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Vì vậy muốn định tội chính xác phải nắm vững cấu thành tội phạm.
2. Các yếu tố cấu thành tội phạm

2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. Nếu như không có sự xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì hành vi đó không thể coi là nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là tội phạm.
Khách thể của tội phạm được phân ra làm ba loại: (i) khách thể chung; (ii) khách thể loại; (iii) khách thể trực tiếp. Sự phân loại này chính là phương pháp để xác định khách thể của tội phạm trong các vụ án hình sự, giúp hoạt động định tội danh được chính xác.
2.1.1. Khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trước hành vi xâm hại của tội phạm.
Theo luật hình sự Việt Nam, khách thể chung của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác định tại Điều 1 cũng như Điều 8 của Bộ luật hình sự và bị tội phạm xâm hại. Đó là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân …
2.1.2. Khách thể loại của tội phạm
Khách thể loại của tội phạm là một nhóm các quan hệ xã hội có tính chất tương đồng nhau, được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ trước sự xâm phạm của một nhóm các tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Trên cơ sở khách thể chung, Bộ luật Hình sự quy định các nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất, tương đồng nhau bị tội phạm xâm hại vào các chương tội phạm cụ thể.
Ví dụ: Chương XIII của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia; Chương XIV quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người…
Việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương, giúp cho việc tiếp cận và xác định các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm đơn giản hơn, trên cơ sở đó xác định tội phạm cụ thể.
2.1.3. Khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể, được được luật hình sự bảo vệ trước sự xâm hại của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Tội phạm khi thực hiện, luôn xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể. Các quan hệ xã hội này được thể hiện trong các chương thuộc phần các tội phạm. Muốn xác định được tội danh cụ thể đối với hành vi phạm tội, cần phải xác định được lợi ích cụ thể, trực tiếp bị tội phạm xâm hại là gì.
Tùy vào tính chất đặc trưng của mỗi loại tội phạm, có tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp, có tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp.
Ví dụ: Tội giết người tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ có một khách thể trực tiếp, đó là tội phạm xâm phạm đến tính mạng (quyền sống) của người khác được luật hình sự bảo vệ; Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là tội có nhiều khách thể trực tiếp, ngoài việc xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, tội phạm còn xâm phạm đến quyền nhân thân và quyền sở hữu tài sản, đối với những tội phạm này, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm chỉ được thể hiện đầy đủ khi xâm phạm đến các quan hệ xã hội cụ thể trên.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. Trong mặt khách quan của tội phạm, dấu hiệu về hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc luôn phải có trong cấu thành tội phạm của mọi tội.
2.2.1. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm là xử sự trái pháp luật hình sự của chủ thể trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Xử sự này gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
2.2.1. Các hình thức của hành vi khách quan của tội phạm
2.2.1.1. Hành động phạm tội
Hành động phạm tội là hình thức biểu hiện của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, qua đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành động phạm tội được thể hiện thông qua việc chủ thể thực hiện một hoặc nhiều hành vi mà luật hình sự cấm thực hiện.
Qua việc nghiên cứu các hành vi phạm tội, đối với hành động phạm tội thường thể hiện ở các dạng cụ thể sau:
– Chủ thể thực hiện tội phạm bằng cách tác động trực tiếp vào đối tượng tác động.
Ví dụ: A dùng tay bóp cổ B cho đến lúc B chết.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua công cụ, phương tiện.
Ví dụ: A dùng súng bắn vào đầu B dẫn đến B tử vong.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua lời nói.
Ví dụ: A dùng lời lẽ đe dọa sẽ giết B, khiến B tin đó là sự thật và lo sợ.
– Chủ thể thực hiện tội phạm thông qua người không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc thông qua người không có năng lực trách nhiệm hình sự, hoặc những người bị cưỡng bức về thể chất hoặc tinh thần.
Ví dụ: A (20 tuổi) đưa cho B (13 tuổi) 01 triệu đồng nhờ B vận chuyển 01 kg heroine từ địa bàn này sang địa bàn khác;
Ví dụ: A dùng súng dí vào đầu B, bảo B phải ném lựu đạn vào nhà C, nếu không A sẽ bắn chết B.
2.2.1.2. Không hành động phạm tội
Không hành động phạm tội là biểu hiện thứ hai của hành vi khách quan, theo đó, không hành động phạm tội là hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật hình sự yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp không hành động gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo về đều phạm tội. Chỉ được xem là không hành động phạm tội khi thoả mãn các điều kiện sau:
– Chủ thể phải có nghĩa vụ hành động. Nghĩa vụ hành động đó xuất phát do nghĩa vụ do Nhà nước quy định, ví dụ như nghĩa vụ đóng thuế; nghĩa vụ quân sự…; nghĩa vụ do chức năng, nghề nghiệp bắt buộc thực hiện.
Ví dụ: Trách nhiệm cứu chữa bệnh nhân của bác sĩ, nghĩa vụ bảo vệ tài sản của người bảo vệ…; nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng thuê giữ trẻ làm phát sinh nghĩa vụ trông coi, chăm sóc trẻ…; nghĩa vụ phát sinh từ xử sự trước đó của chủ thể, như trách nhiệm pháp lý cứu người khi gây ra tại nạn giao thông của chủ thể điều khiển phương tiện giao thông.
– Chủ thể phải có khả năng (điều kiện) để thực hiện nghĩa vụ. Điều này đòi hỏi trong những trường hợp nghĩa vụ phát sinh, chủ thể phải có khả năng để thực hiện nghĩa vụ đó, nếu không có khả năng thực hiện thì không phạm tội.
Ví dụ: A không biết bơi, thấy B bị đuối nước ở dưới sông kêu cứu mà A không cứu dẫn đến B chết, trong trường hợp này A không phạm tội.
Trong Bộ luật Hình sự, phần lớn các tội phạm được thực hiện bằng hình thức hành động; có một số tội phạm chỉ thực hiện bằng không hành động như tội trốn thuế, tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…; cũng có một số tội vừa thực hiện bằng hành động vừa bằng không hành động như tội giết người, tội huỷ hoại tài sản… điều này phụ thuộc vào đặc trưng hành vi của từng tội phạm và dấu hiệu định tội của nó.
2.2.2. Hậu quả của tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do đó khi thực hiện, tội phạm luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại trên thực tế. Để đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, yếu tố hậu quả đóng vai trò rất quan trọng.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để xác định mức độ hậu quả của tội phạm, chúng ta phải xác định mức độ làm biến đổi tìnhtrạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm ở thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra luôn có sự thay đổi về trạng thái tự nhiên hoặc trạng thái pháp lý.
Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: Giết hại vật chất; thiệt hại về thể chất; thiệt hại tinh thần; thiệt hại về phi vật chất.
Việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Đối với cấu thành tội phạm vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội, còn đối với cấu thành tội phạm tăng nặng phản ánh dấu hiệu hậu quả của tội phạm, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Ngoài ra, dấu hiệu hậu quả được phản ánh trong một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt của Tòa án.
2.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm).
Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nhân quả trong phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm như sau:
– Hành vi phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Điều này, có ý nghĩa để xác định tội phạm, định tội, định khung.
Ví dụ: A bị tai biến, được đưa đi cấp cứu, trên đường đưa đi cấp cứa A đã tử vong, sau khi A tử vong, thì xe ô tô của B tông vào xe cấp cứu đang chở A. Trong trường hợp này, chúng ta phải xác định hậu quả A chết trước hành vi gây tai nạn của B, do đó, tình tiết về hậu quả này không có ý nghĩa pháp lý khi xem xét trách nhiệm pháp lý của B.
– Hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Đây là điều kiện để chứng minh khả năng phát sinh hậu quả của hành vi, nếu thực tế loại trừ khả năng này thì không có mối quan hệ nhân quả.
– Hậu quả xảy ra phải là hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi. Việc xác định hậu quả phải đặt trong mối quan hệ với hành vi, đánh giá hậu quả là khả năng hiện thực phát sinh từ hành vi khách quan của tội phạm.
Mối quan hệ nhân quả được thể hiện ở các dạng chủ yếu sau:
– Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp là mối quan hệ nhân quả chỉ có một hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả.
Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 20%.
– Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp là quan mối hệ nhân quả có nhiều hành vi phạm tội làm nguyên nhân, trong đó, mỗi hành vi đều đã chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả.
Ví dụ: A và B dùng gậy gây thương tích cho M (tỷ lệ thương tích 30%). Trường hợp này, nếu tách ra mỗi hành vi đều có khả năng gây ra hậu quả cho M. Tuy nhiên, trong sự kết hợp với nhau thì đã gây ra một hậu quả chung là M bị thương tật tỷ lệ 30%.
Đối với những tội phạm có gây ra hậu quả, thì phải chứng minh mối quan hệ nhân quả, dù dấu hiệu hậu quả được xác định dùng để định tội, định khung hay tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
2.2.4. Những biểu hiện khác trong mặt khách quan của tội phạm
Biểu hiện khác trong mặt khách quan bao gồm: công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.
Công cụ, phương tiện phạm tội là những đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Trong Bộ luật Hình sự có một số ít tội quy định công cụ, phương tiện được là dấu hiệu bắt buộc để định tội.
Ví dụ: Phương tiện vật chất là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ tại Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện tội phạm được biểu hiện thông qua việc thực hiện hành vi dựa trên sự khôn khéo, tinh vi có tính toán của người phạm tội. Dấu hiệu này có thể dùng để định tội, ví dụ như: “thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hoặc có thể là tình tiết định khung tăng nặng như tình tiết “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm” tại điểm d khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, hoặc cũng có thể là tình tiết tăng nặng tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngoài ra, trong mặt khách quan của tội phạm còn biểu hiện về thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội và hoàn cảnh phạm tội. Tùy vào từng tội phạm cụ thể để xác định vai trò pháp lý của những dấu hiệu này.
2.3. Mặt chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi phạm tội. Cá nhân là người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi luật định. Đây là hai dấu hiệu bắt buộc đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân. Đối với chủ thể là tổ chức thì phải đảm bảo điều kiện là pháp nhân thương mại.
2.3.1. Năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển hành vi ấy của người phạm tội.
Pháp luật hình sự không quy định một người có năng lực trách nhiệm hình sự là như thế nào, tuy nhiên, các quy định trong Bộ luật Hình sự xác định các điều kiện để có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Điều kiện thứ nhất, người thực hiện hành vi phạm tội phải đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự ghi nhận độ tuổi cụ thể để một người khi thực hiện hành vi họ nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi đó, cũng như hậu quả xảy ra (hoặc có thể xảy ra) và điều khiển được hành vi của mình theo đúng yêu cầu của xã hội, của pháp luật.
– Điều kiện thứ hai, người thực hiện hành vi phạm tội khi đạt độ tuổi theo luật định họ không bị mắc các căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Các căn bệnh đó được pháp luật hình sự quy định cụ thể.
Tóm lại, có thể hiểu, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đạt độ tuổi theo luật định và không mắc các căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, mất khả năng điều khiển hành vi.
2.3.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một nội dung rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý người phạm tội, vừa đảm bảo trật tự, an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi, kể cả khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Luật hình sự Việt Nam căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số nước, cũng như dựa vào kết quả công trình nghiên cứu khảo sát về tâm sinh lý con người và căn cứ vào chính sách hình sự qua các thời kỳ lịch sử của Nhà nước, Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Như vậy, luật hình sự Việt Nam không quy định độ tuổi tối đa phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ quy định độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự là tròn 14 tuổi. Tuy nhiên, có những quy định về điều kiện để áp dụng trách nhiệm hình sự, cụ thể:
– Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên “phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Căn cứ vào tình hình phát triển chung về thể chất và tâm sinh lý của người Việt Nam, người từ đủ 16 tuổi trở lên là người đã nhận thức được tính nguy hiểm của mọi hành vi mà mình thực hiện cũng như khả năng điều khiển được hành vi ấy, do đó, phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà mình gây ra. Tuy nhiên, để xác định tính phù hợp và linh hoạt trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở một số tội phạm cụ thể, pháp luật hình sự có quy định riêng ở một số tội phạm, mà độ tuổi cụ thể được đề cập trong cấu thành cơ bản của tội phạm ấy.
Ví dụ: khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi… thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”, như vậy, độ tuổi tối thiểu đối với tội danh này là tròn 18 tuổi trở lên.
– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi “phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” Với quy định này, điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bao gồm:
+ Tội phạm thực hiện phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, tức là mức cao nhất của khung hình phạt trên 07 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình;
+ Tội phạm thực hiện phải thuộc tội danh được quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự. Quy định này trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi đối tượng người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã khắc phục hạn chế của các Bộ luật Hình sự trước đó. Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự năm 1999 đều xác định loại tội phạm và lỗi là dấu hiệu bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự2 mà không có sự phân loại các tội phạm cụ thể. thực tế, người trong độ tuổi này dễ bị lôi kéo, dụ dỗ để thực hiện tội phạm và họ không nhận thức được hoặc nhận thức không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, ví dụ như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm chiến tranh… Do đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giới hạn một cách cụ thể, rõ ràng các loại tội phạm và tội phạm cụ thể mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này phù hợp với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự dựa vào yếu tố lỗi và truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế khách quan, đảm bảo quyền con người đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi nói chung và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng.
Pháp luật hình sự xác định nguyên tắc tính tuổi tròn đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân. Thuật ngữ “từ đủ” trong điều luật đã xác định một nguyên tắc khi tính tuổi là phải tròn ngày, tròn tháng, tròn năm.
Ví dụ: Nguyễn Văn A, sinh ngày 20/10/2002 thì phải đến ngày 20/10/2016 mới tròn 14 tuổi và đến 20/10/2018 mới tròn 16 tuổi. Trong trường hợp không xác định được ngày sinh hoặc tháng sinh của người phạm tội thì sẽ chọn ngày cuối cùng của tháng, nếu xác định được tháng sinh hoặc ngày cuối cùng, tháng cuối cùng của quý, nếu xác định được quý sinh hoặc ngày cuối cùng, tháng cuối cùng của năm nếu xác định được năm sinh của người phạm tội1. Ví dụ: Vào ngày 20/5/2019, Trần Văn B, thực hiện hành vi giết người được quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Qua xác minh thì cơ quan chức năng xác định được B sinh vào tháng 5/2005 mà không xác định được ngày sinh. Trong trường hợp này, căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự thì lấy ngày cuối cùng của tháng 5/2005 làm ngày sinh cho B, tức B sinh ngày 31/5/2005. Như vậy, B chưa tròn 14 tuổi, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với B. Quy định này xuất phát trên cơ sở nguyên tắc áp dụng truy cứu trách nhiệm hình sự có lợi và nhân đạo cho người phạm tội.
2.3.3. Chủ thể đặc biệt của tội phạm
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là thuật ngữ dùng để chỉ người phạm tội ngoài điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định phải thỏa mãn thêm một số dấu hiệu thuộc về nhân thân dùng để định tội trong một số tội phạm cụ thể.
Các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt là các đặc điểm phản ánh nhân thân người phạm tội được thể hiện ở đặc điểm sinh học, đặc điểm tâm lý và đặc điểm xã hội, dùng làm dấu hiệu để định tội, cụ thể:
– Về đặc điểm sinh học: Một số tội danh bắt buộc dấu hiệu giới tính là dấu hiệu định tội, ví dụ như tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự năm 2015), yêu cầu người phạm tội phải là người mẹ trực tiếp sinh ra đứa trẻ – nạn nhân bị giết hoặc bị vứt bỏ, như vậy phải là nữ giới.
– Về đặc điểm tâm lý: Dấu hiệu tâm lý của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong một số tội danh, như tội phạm tại Điều 125, Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 2015, khi yêu cầu người phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
– Về đặc điểm xã hội: Các dấu hiệu thuộc về đặc điểm này dùng làm dấu hiệu định tội thể hiện khá phổ biến ở các tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự, như dấu hiệu về hoàn cảnh gia đình là dấu hiệu bắt buộc trong tội loạn luân tại Điều 184, hay dấu hiệu người có chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu bắt buộc trong các tội phạm về tham nhũng…
Việc xác định chủ thể đặc biệt để định tội trong một số tội danh của Bộ luật Hình sự thể hiện sự linh hoạt, phù hợp khi xác định những điều kiện của chủ thể là cá nhân để truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, các đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội ảnh hưởng rất lớn đối với việc thực hiện hành vi phạm tội, do đó, khi truy cứu trách nhiệm hình sự đòi hỏi phải căn cứ vào từng tội phạm cụ thể để xem xét vai trò pháp lý của những dấu hiệu nhân thân một cách kỹ lưỡng và phù hợp.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong các dấu hiệu của mặt chủ quan, dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của mỗi tội. Một hành vi được thực hiện nếu không có lỗi thì không thể là tội phạm dù nó có gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
2.4.1. Dấu hiệu lỗi
2.4.1.1. Lỗi cố ý
Ý thức chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội rất đa dạng, việc xác định chủ yếu dựa trên cơ sở nhận thức về tính chất của tội phạm và khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện. Lỗi cố ý được đề cập tại Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, điều luật xác định tính chất cố ý khi phạm tội là trường hợp một người thực hiện hành vi phạm tội, họ nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi đó, họ mong muốn hoặc để mặc (chấp nhận) hậu quả xảy ra. Trên cơ sở nhận thức này, khoa học luật hình sự chia thành hai trường hợp: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại khoản 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”.
Từ khái niệm, có thể thấy rằng, đối với lỗi cố ý trực tiếp thì lý trí của người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Vì mâu thuẫn trong việc làm ăn, nên Nguyễn Văn A đã nung nấu ý định giết Trần Hữu Đ. Một hôm, lợi dụng Đ sơ hở, A đã bỏ thuốc độc vào ly nước của Đ và mời Đ uống. Sau khi uống xong, Đ trúng độc và chết. Trường hợp này, A phạm tội giết người, với lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp được quy định tại khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”.
Bên cạnh một số dấu hiệu giống với lỗi cố ý trực tiếp, như nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi, có thể nhận thức được hậu quả thì lỗi cố ý gián tiếp có một số dấu hiệu riêng. Trong lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tuy nhiên lại có ý thức “để mặc”, tức là chấp nhận hậu quả (nếu có) xảy ra. Đây là trạng thái tâm lý thuộc về ý chí và vì thái độ để mặc hậu quả nên ảnh hưởng đến nhận thức của người phạm tội, trường hợp này, người phạm tội không nhận thức rõ được hậu quả, vì để mặc, tức là hậu quả có thể xảy ra hoặc không, nên việc nhận thức hậu quả không mang tính tất yếu mà chỉ mang tính khả năng (có thể).
Ví dụ: Lê Văn T có mâu thuẫn với Hứa Minh C, hai bên đã xảy ra xô xát nhau, trong khi đánh nhau, T đã xô C ngã xuống mương nước, sau đó T bỏ đi. Vì không biết bơi nên C đã bị đuối nước và chết. Trường hợp này, T phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, bởi vì T nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, tuy T không mong muốn C chết, nhưng sau khi xô C ngã xuống mương nước, vì tức giận nên T đã bỏ mặc hậu quả xảy ra đối với C và chấp nhận hậu quả C chết.
2.4.1.2. Lỗi vô ý
Vô ý phạm tội là trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm và gây ra hậu quả cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm từ hành vi cũng như hậu quả xảy ra nhưng đã tự tin loại trừ hậu quả, hoặc tin vào khả năng khắc phục hậu quả; hoặc vì sự cẩu thả nên người phạm tội đã không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mình thực hiện cũng như hậu quả xảy ra.
Đối với trường hợp lỗi vô ý, người phạm tội không mong muốn cũng không để mặc cho hậu quả xảy ra, việc hậu quả xảy ra nằm ngoài mong muốn và dự tính của người phạm tội. Trên cơ sở lý trí và ý chí người phạm tội phát sinh yếu tố lỗi của lỗi vô ý, nhà làm luật chia ra hai trường hợp: lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin được quy định tại khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của: “Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được”.
Với quy định này, việc nhận biết lỗi vô ý vì quá tự tin căn cứ vào nhận thức chủ quan của người phạm tội, mặc dù người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả, nhưng vì tự tin nên đã loại trừ yếu tố hậu quả. Cơ sở để người phạm tội tin hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được là dựa vào khả năng của bản thân, hoặc khả năng của yếu tố khách quan. Chẳng hạn, tin vào kết quả mình học tập, rèn luyện, tập luyện được hoặc tin vào tay nghề, chuyên môn.
Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả được quy định tại khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp: “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.
Khác với lỗi vô ý vì quá tự tin, người phạm tội với lỗi vô ý do cẩu thả không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi cũng như khả năng gây ra hậu quả, nguyên nhân là do sự cẩu thả, người phạm tội đã không nhận thức được điều này, mặc dù họ có năng lực để nhận thức và pháp luật bắt buộc phải nhận thức, chính vì vậy người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Lê Văn A là chồng của Bùi Thị H, hai người sống ở tầng 3 của tòa nhà chung cư. Ngày 20/7/2018, do mâu thuẫn nhau nên hai người xảy ra cãi vã, trong quá trình cãi nhau, A đã cầm nồi điện ném vào H, nhưng không trúng H mà nồi điện lại bay qua cửa sổ, rơi xuống đường, đúng lúc này, bà Lê Thị B đi ngang qua bị nồi điện trúng vào đầu và tử vong.
Cần phân biệt giữa lỗi vô ý do cẩu thả với sự kiện bất ngờ, cả hai trường hợp này có nhiều điểm giống nhau, đó là, người thực hiện hành vi nguy hiểm và gây ra hậu quả không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện cũng như hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, đối với sự kiện bất ngờ, thì người thực hiện hành vi không có khả năng nhận thức và pháp luật không buộc họ phải nhận thức được, vì những tình huống khách quan xảy ra quá bất ngờ, mà ai ở trong hoàn cảnh của họ cũng không nhận thức và điều khiển hành vi kịp thời, do đó người thực hiện hành vi nguy hiểm do sự kiện bất ngờ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.4.1.3. Trường hợp hỗn hợp lỗi
Hỗn hợp lỗi là trường hợp trong một cấu thành tội phạm có hai hình thức lỗi (lỗi cố ý và vô ý) được quy định với các tình tiết khách quan khác nhau.
Thông thường, một người khi thực hiện hành vi phạm tội, biểu hiện thái độ tâm lý sẽ thông qua hành vi và hậu quả. Và điều này (đa số) các tội phạm đều có sự nhất quán về một loại lỗi nhất định.
Ví dụ: Đối với tội giết người, người phạm tội trước khi thực hiện hành vi, họ mong muốn hoặc bỏ mặc (chấp nhận) nạn nhân chết, do đó, họ cố ý thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác và hậu quả chết người mà họ gây ra cũng thể hiện lỗi cố ý.
Tuy nhiên, trong quy định của Bộ luật Hình sự có một số cấu thành tội phạm thể hiện sự khác nhau về thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi phạm tội và hậu quả mà tội phạm gây ra. Cụ thể, có một số cấu thành tội phạm, biểu hiện trong cấu thành cơ bản là lỗi cố ý, tuy nhiên trong cấu thành tội phạm tăng nặng, nhà làm luật quy định thêm tình tiết về hậu quả làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mặc dù những hậu quả này người phạm tội không mong muốn, cũng không để mặc xảy ra, và việc hậu quả đó xảy ra hoàn toàn do vô ý. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là trường hợp hỗn hợp lỗi.
Ví dụ: Đối với tội hiếp dâm, tại điểm c khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định tình tiết “làm nạn nhân chết” là tình tiết định khung tăng nặng, thì tình tiết này thể hiện sự vô ý của người phạm tội đối với hậu quả “nạn nhân chết” mà hành vi hiếp dâm (cố ý) đã gây ra. Như vậy, trong một cấu thành tội phạm nhưng dấu hiệu (tình tiết) khách quan ở cấu thành cơ bản thể hiện lỗi cố ý, còn dấu hiệu (tình tiết) ở cấu thành tăng nặng thể hiện lỗi vô ý của người phạm tội.
2.4.2. Động cơ và mục đích phạm tội
2.4.2.1. Động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội chỉ được đặt ra đối với lỗi cố ý, trong các tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội không có hoạt động có định hướng mục đích đến việc thực hiện tội phạm, ở người phạm tội không có động lực thực hiện tội phạm.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Đa số trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt.
Ví dụ: Phạm tội “vì động cơ đê hèn” của tội giết người, được quy định tại điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, hay tình tiết tăng nặng “phạm tội vì động cơ đê hèn” tại điểm đ khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
2.4.2.2. Mục đích phạm tội
Cũng như động cơ của tội phạm, mục đích của tội phạm cũng chỉ đặt ra đối với lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội quyết định đến ý chí của người phạm tội nhằm hướng ý chí đến việc thực hiện tội phạm.
Mục đích phạm tội là cái mốc mà người phạm tội mong muốn đạt đến khi thực hiện tội phạm.
Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm chính là sự thể hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội. Chính vì vậy, trong dấu hiệu định tội của mỗi cấu thành tội phạm chỉ có sự hiện diện của một trong hai dấu hiệu này mà thôi. Những tội phạm nào mà hậu quả dễ xác định thì trong cấu thành tội phạm không có dấu hiệu mục đích, ví dụ: tội trộm cắp tài sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác… Ngược lại, những tội phạm khó xác định hậu quả thì cấu thành tội phạm có sự xuất hiện của mục đích phạm tội, ví dụ: ở các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Trên thực tế, không phải hậu quả nào mà tội phạm gây ra cũng đều thể hiện được mục đích phạm tội. Bởi vì, mục đích phạm tội thuộc về ý thức chủ quan, về thái độ tâm lý của người phạm tội và nó luôn tồn tại với lỗi cố ý trực tiếp, trong khi đó, hậu quả của tội phạm là biểu hiện ở hiện thực khách quan, là kết quả của hành vi gây ra dưới sự tác động của các tình huống, hoàn cảnh khách quan… nên có nhiều trường hợp, hậu quả không xảy ra hoặc xảy ra nhưng không phản ánh đúng mục đích của người phạm tội.
Ví dụ: Lê Minh T vì muốn giết B nên đã dùng súng bắn B, tuy nhiên do ngắm không kỹ nên T đã bắn không trúng B mà trúng mẹ của B đang ngồi trong nhà, dẫn đến hậu quả mẹ B chết.