1. Mặt chủ quan của tội phạm là gì?
Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan của tội phạm là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội, liên quan với việc thực hiện tội phạm.
Một người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm chỉ khi hành vi đó là kết quả lựa chọn của hoạt động tâm lý bên trong, tức là thể hiện đầy đủ ý chí và lý trí của người phạm tội. Vì thế, mặt chủ quan không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Việc chứng minh diễn biến trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội thông qua những biểu hiện ra bên ngoài, hay nói cách khác, giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tóm lại, mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến, trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Chứng minh tội phạm là một hoạt động phức tạp, đặc biệt là chứng minh tâm lý người phạm tội đối với tội phạm mà họ thực hiện. Trạng thái tâm lý thuộc về ý thức chủ quan bên trong của người phạm tội và có vai trò pháp lý rất quan trọng đối với việc xác định tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành nên tội phạm, trong đó yếu tố lỗi trong mặt chủ quan là yếu tố bắt buộc phải có trong mọi tội phạm và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như xác định tội danh.

2. Dấu hiệu lỗi
Trong khoa học pháp lý hình sự, lỗi được xác định là những biểu hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi ấy gây ra. Xác định tính có lỗi khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải có hành vi trái pháp luật hình sự. Trong trường hợp này, chủ thể đã thực hiện một hoặc một số hành vi mà pháp luật hình sự cấm hoặc không làm theo những điều mà pháp luật hình sự yêu cầu.
Thứ hai, người thực hiện hành vi trái pháp luật hình sự phải có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi. Điều này đòi hỏi khi thực hiện hành vi trái pháp luật hình sự, chủ thể hoàn toàn có năng lực để nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả xảy ra, cũng như có khả năng để điều khiển hành vi theo đúng yêu cầu của xã hội, của pháp luật.
Nếu thỏa mãn cả hai điều kiện trên, chủ thể khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và gây ra (hoặc đe dọa gây ra) hậu quả xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ sẽ bị coi là có lỗi.
Để đánh giá yếu tố lỗi và sự ảnh hưởng của nó đến trách nhiệm pháp lý hình sự, căn cứ vào năng lực nhận thức (lý trí) và căn cứ vào khả năng điều khiển hành vi (ý chí), lỗi được chia ra làm hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự là một hậu quả pháp lý bất lợi nhất đối với chủ thể bị áp dụng, do đó so với các loại vi phạm pháp luật khác, khi xác định tội phạm, yếu tố lỗi được phân chia cụ thể hơn, theo đó trong mỗi hình thức lỗi được chia thành hai loại lỗi, bao gồm: trong lỗi cố ý có cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; trong lỗi vô ý có vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Việc phân chia cụ thể này nhằm đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự chính xác, đúng người, đúng tội, đúng khung (mức) hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
2.1. Lỗi cố ý
Ý thức chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội rất đa dạng, việc xác định chủ yếu dựa trên cơ sở nhận thức về tính chất của tội phạm và khả năng điều khiển hành vi của người thực hiện. Lỗi cố ý được đề cập tại Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, điều luật xác định tính chất cố ý khi phạm tội là trường hợp một người thực hiện hành vi phạm tội, họ nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi đó, họ mong muốn hoặc để mặc (chấp nhận) hậu quả xảy ra. Trên cơ sở nhận thức này, khoa học luật hình sự chia thành hai trường hợp: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
2.1.1. Lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại khoản 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”. Từ khái niệm, có thể thấy rằng, đối với lỗi cố ý trực tiếp thì lý trí của người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Vì mâu thuẫn trong việc làm ăn, nên Nguyễn Văn A đã nung nấu ý định giết Trần Hữu Đ. Một hôm, lợi dụng Đ sơ hở, A đã bỏ thuốc độc vào ly nước của Đ và mời Đ uống. Sau khi uống xong, Đ trúng độc và chết. Trường hợp này, A phạm tội giết người, với lỗi cố ý trực tiếp.
2.1.2. Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp được quy định tại khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”.
Bên cạnh một số dấu hiệu giống với lỗi cố ý trực tiếp, như nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi, có thể nhận thức được hậu quả thì lỗi cố ý gián tiếp có một số dấu hiệu riêng. Trong lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tuy nhiên lại có ý thức “để mặc”, tức là chấp nhận hậu quả (nếu có) xảy ra. Đây là trạng thái tâm lý thuộc về ý chí và vì thái độ để mặc hậu quả nên ảnh hưởng đến nhận thức của người phạm tội, trường hợp này, người phạm tội không nhận thức rõ được hậu quả, vì để mặc, tức là hậu quả có thể xảy ra hoặc không, nên việc nhận thức hậu quả không mang tính tất yếu mà chỉ mang tính khả năng (có thể).
Ví dụ: Lê Văn T có mâu thuẫn với Hứa Minh C, hai bên đã xảy ra xô xát nhau, trong khi đánh nhau, T đã xô C ngã xuống mương nước, sau đó T bỏ đi. Vì không biết bơi nên C đã bị đuối nước và chết. Trường hợp này, T phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, bởi vì T nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, tuy T không mong muốn C chết, nhưng sau khi xô C ngã xuống mương nước, vì tức giận nên T đã bỏ mặc hậu quả xảy ra đối với C và chấp nhận hậu quả C chết.
2.2. Lỗi vô ý
Vô ý phạm tội là trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm và gây ra hậu quả cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm từ hành vi cũng như hậu quả xảy ra nhưng đã tự tin loại trừ hậu quả, hoặc tin vào khả năng khắc phục hậu quả; hoặc vì sự cẩu thả nên người phạm tội đã không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mình thực hiện cũng như hậu quả xảy ra. Đối với trường hợp lỗi vô ý, người phạm tội không mong muốn cũng không để mặc cho hậu quả xảy ra, việc hậu quả xảy ra nằm ngoài mong muốn và dự tính của người phạm tội. Trên cơ sở lý trí và ý chí người phạm tội phát sinh yếu tố lỗi của lỗi vô ý, nhà làm luật chia ra hai trường hợp: lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
2.2.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin được quy định tại khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của: “Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được”.
Với quy định này, việc nhận biết lỗi vô ý vì quá tự tin căn cứ vào nhận thức chủ quan của người phạm tội, mặc dù người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả, nhưng vì tự tin nên đã loại trừ yếu tố hậu quả. Cơ sở để người phạm tội tin hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được là dựa vào khả năng của bản thân, hoặc khả năng của yếu tố khách quan. Chẳng hạn, tin vào kết quả mình học tập, rèn luyện, tập luyện được hoặc tin vào tay nghề, chuyên môn.
2.2.2. Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả được quy định tại khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp: “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.
Khác với lỗi vô ý vì quá tự tin, người phạm tội với lỗi vô ý do cẩu thả không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi cũng như khả năng gây ra hậu quả, nguyên nhân là do sự cẩu thả, người phạm tội đã không nhận thức được điều này, mặc dù họ có năng lực để nhận thức và pháp luật bắt buộc phải nhận thức, chính vì vậy người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Lê Văn A là chồng của Bùi Thị H, hai người sống ở tầng 3 của tòa nhà chung cư. Ngày 20/7/2018, do mâu thuẫn nhau nên hai người xảy ra cãi vã, trong quá trình cãi nhau, A đã cầm nồi điện ném vào H, nhưng không trúng H mà nồi điện lại bay qua cửa sổ, rơi xuống đường, đúng lúc này, bà Lê Thị B đi ngang qua bị nồi điện trúng vào đầu và tử vong.
Cần phân biệt giữa lỗi vô ý do cẩu thả với sự kiện bất ngờ, cả hai trường hợp này có nhiều điểm giống nhau, đó là, người thực hiện hành vi nguy hiểm và gây ra hậu quả không nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện cũng như hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, đối với sự kiện bất ngờ, thì người thực hiện hành vi không có khả năng nhận thức và pháp luật không buộc họ phải nhận thức được, vì những tình huống khách quan xảy ra quá bất ngờ, mà ai ở trong hoàn cảnh của họ cũng không nhận thức và điều khiển hành vi kịp thời, do đó người thực hiện hành vi nguy hiểm do sự kiện bất ngờ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.3. Trường hợp hỗn hợp lỗi
Hỗn hợp lỗi là trường hợp trong một cấu thành tội phạm có hai hình thức lỗi (lỗi cố ý và vô ý) được quy định với các tình tiết khách quan khác nhau.
Thông thường, một người khi thực hiện hành vi phạm tội, biểu hiện thái độ tâm lý sẽ thông qua hành vi và hậu quả. Và điều này (đa số) các tội phạm đều có sự nhất quán về một loại lỗi nhất định. Ví dụ: đối với tội giết người, người phạm tội trước khi thực hiện hành vi, họ mong muốn hoặc bỏ mặc (chấp nhận) nạn nhân chết, do đó, họ cố ý thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác và hậu quả chết người mà họ gây ra cũng thể hiện lỗi cố ý. Tuy nhiên, trong quy định của Bộ luật Hình sự có một số cấu thành tội phạm thể hiện sự khác nhau về thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi phạm tội và hậu quả mà tội phạm gây ra. Cụ thể, có một số cấu thành tội phạm, biểu hiện trong cấu thành cơ bản là lỗi cố ý, tuy nhiên trong cấu thành tội phạm tăng nặng, nhà làm luật quy định thêm tình tiết về hậu quả làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mặc dù những hậu quả này người phạm tội không mong muốn, cũng không để mặc xảy ra, và việc hậu quả đó xảy ra hoàn toàn do vô ý. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là trường hợp hỗn hợp lỗi.
Ví dụ: Đối với tội hiếp dâm, tại điểm c khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định tình tiết “làm nạn nhân chết” là tình tiết định khung tăng nặng, thì tình tiết này thể hiện sự vô ý của người phạm tội đối với hậu quả “nạn nhân chết” mà hành vi hiếp dâm (cố ý) đã gây ra. Như vậy, trong một cấu thành tội phạm nhưng dấu hiệu (tình tiết) khách quan ở cấu thành cơ bản thể hiện lỗi cố ý, còn dấu hiệu (tình tiết) ở cấu thành tăng nặng thể hiện lỗi vô ý của người phạm tội.
3. Động cơ và mục đích phạm tội
3.1. Động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội chỉ được đặt ra đối với lỗi cố ý, trong các tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội không có hoạt động có định hướng mục đích đến việc thực hiện tội phạm, ở người phạm tội không có động lực thực hiện tội phạm.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Đa số trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt.
Ví dụ: Phạm tội “vì động cơ đê hèn” của tội giết người, được quy định tại điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, hay tình tiết tăng nặng “phạm tội vì động cơ đê hèn” tại điểm đ khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
3.2. Mục đích phạm tội
Cũng như động cơ của tội phạm, mục đích của tội phạm cũng chỉ đặt ra đối với lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội quyết định đến ý chí của người phạm tội nhằm hướng ý chí đến việc thực hiện tội phạm.
Mục đích phạm tội là cái mốc mà người phạm tội mong muốn đạt đến khi thực hiện tội phạm.
Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm chính là sự thể hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội. Chính vì vậy, trong dấu hiệu định tội của mỗi cấu thành tội phạm chỉ có sự hiện diện của một trong hai dấu hiệu này mà thôi. Những tội phạm nào mà hậu quả dễ xác định thì trong cấu thành tội phạm không có dấu hiệu mục đích, ví dụ: tội trộm cắp tài sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác… Ngược lại, những tội phạm khó xác định hậu quả thì cấu thành tội phạm có sự xuất hiện của mục đích phạm tội, ví dụ: ở các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Trên thực tế, không phải hậu quả nào mà tội phạm gây ra cũng đều thể hiện được mục đích phạm tội. Bởi vì, mục đích phạm tội thuộc về ý thức chủ quan, về thái độ tâm lý của người phạm tội và nó luôn tồn tại với lỗi cố ý trực tiếp, trong khi đó, hậu quả của tội phạm là biểu hiện ở hiện thực khách quan, là kết quả của hành vi gây ra dưới sự tác động của các tình huống, hoàn cảnh khách quan… nên có nhiều trường hợp, hậu quả không xảy ra hoặc xảy ra nhưng không phản ánh đúng mục đích của người phạm tội.
Ví dụ: Lê Minh T vì muốn giết B nên đã dùng súng bắn B, tuy nhiên do ngắm không kỹ nên T đã bắn không trúng B mà trúng mẹ của B đang ngồi trong nhà, dẫn đến hậu quả mẹ B chết.