1. Đình chỉ điều tra vụ án hình sự là gì?
Đình chỉ điều tra vụ án hình sự là một quyết định pháp lý của cơ quan tiến hành tố tụng, chấm dứt mọi hoạt động điều tra liên quan đến vụ án hình sự đó.

2. Trường hợp đình chỉ điều tra vụ án hình sự?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung), cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
– Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án đối với trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại;
– Khi có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự;
– Khi người thực hiện hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015;
– Khi thuộc một trong các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự;
– Người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên;
– Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này.