1. Cơ sở pháp lý
Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy định cụ thể, thiết lập về quyền được đối xử một cách công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đêu không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Vấn đề này được nêu rõ trong Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, theo đó: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này”.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã ghi nhận và quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí của mọi người là như nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội cũng như khi tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, không có sự phần biệt.

2. Nội dung của nguyên tắc
Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Sự bình đẳng trước pháp luật thể hiện ở những điểm sau:
– Bất cứ người nào phạm tội, dù họ là ai cũng phải bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự. Pháp luật không có quy định riêng cho từng cá nhân cụ thể, tài sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền trước Tòa án và pháp luật.
– Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia tố tụng hình sự. Ví dụ: Nếu tham gia tố tụng với tư cách bị can, bị cáo thì họ đều có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; nếu tham gia tố tụng với tư cách bị hại thì họ đều có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015…
– Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành tố tụng theo một trình tự, thủ tục thống nhất đối với các vụ án.
– Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân được thực hiện theo đúng thủ tục quy định tại Chương XXIX Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và thủ tục này được áp dụng thống nhất với các pháp nhân thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm. Nếu pháp nhân tham gia tố tụng với cùng một tư cách tố tụng (cùng là bị can, bị cáo, bị hại, đương sự…) thì pháp nhân bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định cho các chủ thể đó.