1. Nhãn hiệu là gì?
Nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công nghiệp hóa và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát triển của nền kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa cùng chủng loại. Nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ thường khác nhau về chất lượng, giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng, người tiêu dùng cần phải được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn riêng cho mình trong số hàng hóa cạnh tranh, do vậy hàng hóa phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên cho hàng hóa trên thị trường chính là nhãn hiệu.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhãn hiệu, so với các nước trên thế giới, thuật ngữ nhãn hiệu ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam quy định: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.
Theo quy định này thì đối tượng bảo hộ đối với nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu dùng cho hàng hóa và nhãn hiệu dùng cho dịch vụ. Thỏa ước Nice về phân loại hàng hóa, dịch vụ liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu (mà Việt Nam đang áp dụng), đã phân các hàng hóa thành 34 nhóm và các dịch vụ thành 11 nhóm.
– Nhãn hiệu hàng hóa: Là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của những người sản xuất khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể được gắn trực tiếp trên hàng hóa hoặc trên bao bì hàng hóa và các phương tiện kinh doanh liên quan đến quá trình quảng cáo, phân phối hàng hóa đó.
Ví dụ: Nhãn hiệu VINATABA của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam được Cục SHTT cấp văn bằng số 4-0001481-000 vào ngày 19/5/1990 bảo hộ cho nhóm sản phẩm số 34 thuốc lá điếu.
– Nhãn hiệu dịch vụ: Là dấu hiệu được người hay tổ chức kinh doanh dịch vụ sử dụng để phân biệt dịch vụ do mình thực hiện với dịch vụ cùng loại do người khác, tổ chức khác thực hiện. Nhãn hiệu dịch vụ được sử dụng bằng cách gắn lên biển hiệu đặt tại trụ sở, viết trên giấy tờ giao dịch, trên phương tiện tiến hành dịch vụ. Thông qua nhãn hiệu dịch vụ, người tiêu dùng lựa chọn người cung cấp dịch vụ có uy tín. Nhãn hiệu dịch vụ được coi là một loại tài sản vô hình của người thực hiện dịch vụ và là một trong số các đối tượng SHCN được pháp luật bảo hộ.
Ví dụ: vào ngày 19/8/2005 Trường Đại học Dân lập Công nghệ Sài Gòn đã nộp đơn xin bảo hộ nhãn hiệu Đại học Sài Gòn. Ngày 25/1/2007, Cục SHTT đã cấp văn bằng số 78863 bảo hộ nhãn hiệu Đại học Sài Gòn do Trường Đại học Dân lập Công nghệ Sài Gòn là chủ sở hữu cho nhóm số 41 giáo dục và đào tạo, nhóm số 42 chuyển giao công nghệ.
Vai trò cơ bản của nhãn hiệu là giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hóa, dịch vụ đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu khuyến khích chủ sở hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng cura các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó hay những dịch vụ để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng. Bởi vậy, nhãn hiệu “thưởng công” cho những người sản xuất hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu kích thích sự phát triển kinh tế.
Một nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa hay dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc như đã nêu trên cho thấy nhãn hiệu phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của những doanh nghiệp khác; chỉ khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn hiệu đó với những hàng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu hoàn thành chức năng này.
2. Phân biệt nhãn hiệu với một số đối tượng khác
Trong thực tiễn, thường có sự nhầm lẫn giữa nhãn hiệu với một số khái niệm khác, vì vậy để tránh sự nhầm lẫn này cần phân biệt giữa chúng:
2.1. Nhãn hiệu và nhãn hàng hóa
Nhãn hàng hóa là một phần nội dung quan trọng đối với đa số các loại hàng hóa, vì vậy, trên nhãn hàng hóa phải ghi rõ các nội dung bắt buộc như: tên hàng hóa, tên và địa chỉ của người sản xuất chịu trách nhiệm về hàng hóa, thành phần cấu tạo, ngày sản xuất, chỉ tiêu chất lượng, thời gian sử dụng, hướng dẫn bảo quản. Ngoài ra, nhãn hàng hóa còn có thể ghi những nội dung không bắt buộc như tạo dáng vẽ ấn tượng, trang trí hoa văn hấp dẫn người tiêu dùng, mã số, mã vạch… Chính điều này đã gây nên sự nhầm lẫn giữa nhãn hàng hóa và nhãn hiệu trên thực tế của người tiêu dùng.
Chức năng chính của nhãn hàng hóa là thông tin trong đó phải ghi rõ nội dung bắt buộc phải có và những nội dung này thường chỉ mang tính chất mô tả hàng hóa, cách sử dụng cũng như công dụng của hàng hóa. Nhãn hàng hóa phải trình bày theo yêu cầu bắt buộc như chữ số, chữ cái, hình ảnh, phải ghi rõ ràng đúng với bản chất của hàng hóa. Còn nhãn hiệu lại có chức năng chính là phân biệt. Vì vậy, những dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu phải có tính độc đáo, có khả năng phân biệt cao, những dấu hiệu này không có nội dung mô tả hàng hóa, chỉ dẫn thông dụng hay xuất xứ hàng hóa.
Ngôn ngữ thể hiện nhãn hàng hóa lưu thông trong nước phải là tiếng Việt. Một nhãn hiệu có thể được sử dụng cho nhiều loại hàng hóa khác nhau của cùng một chủ sở hữu, nhưng với nhãn hàng hóa thì chỉ sử dụng cho một loại hàng hóa cụ thể duy nhất.
2.2. Nhãn hiệu và tên thương mại
“Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”.
Chức năng chính của tên thương mại là để cá thể hóa chủ thể kinh doanh, phân biệt cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh. Còn nhãn hiệu có chức năng chính là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các thương nhân khác nhau. Về cấu tạo, tên thương mại thường có hai thành phần là phần mô tả (chỉ loại hình tổ chức hoặc hình thức tồn tại của chủ thể kinh doanh hoặc xuất xứ địa lý) và thành phần phân biệt (chỉ tên riêng của chủ thể kinh doanh ).
Ví dụ: Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông là một tên thương mại, trong đó phần mô tả là “Công ty”, còn “Bóng đèn phích nước” chỉ lĩnh vực kinh doanh, thành phần phân biệt là “Rạng Đông”.
Như vậy, tên thương mại và nhãn hiệu là hai khái niệm khác nhau, nhưng một phần của tên thương mại là phần phân biệt có thể được sử dụng làm nhãn hiệu nếu nó bảo đảm các yêu cầu của nhãn hiệu. Chẳng hạn, trường hợp Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, thì “Rạng Đông” có thể được sử dụng để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm của công ty. Ngược lại, nhãn hiệu lại không thể sử dụng làm tên thương mại được. Nhãn hiệu thường được sử dụng cho một vài chủng loại hàng hóa nhất định, nhà sản suất có thể thay đổi cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, nhu cầu đòi hỏi của thị trường, chứ không nhất thiết trong suốt quá trình từ khi ra đời cho đến khi không hoạt động sản xuất sản phẩm đó chỉ mang một nhãn hiệu duy nhất. Còn tên thương mại lại được sử dụng trong một thời gian dài, liên tục của cả quá trình, thời gian tồn tại của chủ thể kinh doanh.
2.3. Nhãn hiệu và thương hiệu
Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng hiểu rõ vai trò, chức năng của nhãn hiệu và thương hiệu. Nhưng có một thực trạng là việc hiểu rõ bản chất của hai khái niệm này dường như vẫn chưa rõ ràng, thậm chí còn nhiều quan điểm cho rằng có thể đồng nhất hai khái niệm này.
Khái niệm nhãn hiệu đã được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, nhưng khái niệm về thương hiệu chưa có một văn bản pháp luật nào của Việt Nam đề cập tới, trong khi đó nền kinh tế thị trường lại sử dụng thuật ngữ này một cách khá phổ biến.
Theo khía cạnh trực quan (phần nhìn thấy được) thì thương hiệu và nhãn hiệu là hoàn toàn tương đồng, bởi vì chúng cùng được sinh ra thông qua một cái tên, một biểu tượng. Nhưng xét về nội hàm và chức năng thì chúng hoàn toàn khác nhau, chẳng hạn như cùng một cái tên BITI’S nó vừa là nhãn hiệu vừa là thương hiệu. Chính vì đặc điểm này mà đã có nhiều ý kiến cho rằng có thể đồng nhất hai khái niệm.
Khi một hãng quyết định đưa ra thị trường một sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới, trước tiên phải đặt cho sản phẩm, dịch vụ đó một tên với mục đích để nhận biết và phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình trên thị trường (nhãn hiệu) và đăng ký tại Cục SHTT. Lúc này, thương hiệu chưa có, chỉ khi trên thị trường xuất hiện và ngày càng có nhiều người biết đến sản phẩm, dịch vụ của hãng (quá trình thương mại hóa), một phần của nhãn hiệu chuyển thành thương hiệu và khi nói về tên sản phẩm, dịch vụ của hãng người ta dùng thuật ngữ thương hiệu. Như vậy, có thể hiểu bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu sau khi được thương mại hóa.
Thương hiệu được sinh ra với mục đích thể hiện sức cạnh tranh của nhà sản xuất trên thị trường và nó được sinh ra bởi thị trường, khác với nhãn hiệu được sinh ra bởi nhà sản xuất. Phần nội hàm của thương hiệu là tương đối rộng và phức tạp, nó không những bao gồm cả nhãn hiệu mà còn hàm chứa các yếu tố như hình ảnh về hàng hóa, hình tượng về doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng, phong cách kinh doanh, phong cách phục vụ của doanh nghiêp, khẩu hiệu dùng trong kinh doanh như BITI’S – nâng niu bàn chân Việt, HEINIKEN – chỉ có thể là HEINIKEN. Đôi khi, người tiêu dùng biết đến khẩu hiệu nhiều hơn là thương hiệu.
3. Phân loại nhãn hiệu
Nhãn hiệu chủ yếu nhằm để xác định từng cá thể kinh doanh là nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay các dịch vụ mang nhãn hiệu đó. Quy định của pháp luật Việt Nam quy định về các loại nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu nổi tiếng.
3.1. Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên tổ chức đó. Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất, nhà cung cấp (thường là hiệp hội, hợp tác xã…), trong đó tổ chức tập thể xây dựng quy chế chung về việc sử dụng nhãn hiệu tập thể và các thành viên có quyền sử dụng nhãn hiệu nếu hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn đó. Chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể có nghĩa vụ kiểm soát sự tuân thủ theo quy chế sử dụng nhãn hiệu của các cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể. Các thành viên có thể sử dụng nhãn hiệu tập thể nếu họ tuân thủ yêu cầu đặt ra trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Như vậy, chức năng của nhãn hiệu tập thể là thông tin cho công chúng biết về những phẩm chất đặc trưng của sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể. Một doanh nghiệp được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể có quyền dùng kèm theo cùng với nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu của riêng mình.
3.2. Nhãn hiệu chứng nhận
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính,… của hàng hóa, dịch vụ đăng ký, sau đó, tổ chức này có quyền cấp phép sử dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất, kinh doanh nào nếu hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận đặt ra. Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của quy chế sử dụng nhãn hiệu trong quá trình chứng nhận hàng hóa, dịch vụ đủ tiêu chuẩn mang nhãn hiệu và có nghĩa vụ kiểm soát nhãn hiệu chứng nhận tương ứng.
3.3. Nhãn hiệu liên kết
“Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan đến nhau”.
Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy nhãn hiệu liên kết bao gồm hai loại:
– Nhãn hiệu liên kết bao gồm một loạt nhãn hiệu tương tự nhau được một chủ sở hữu đăng ký dùng cho các hàng hóa, dịch vụ cùng loại hay tương tự nhau.
– Nhãn hiệu liên kết bao gồm các nhãn hiệu giống hệt nhau nhưng đăng ký cho nhiều sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc liên quan với nhau.
3.4. Nhãn hiệu nổi tiếng
Khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tại Việt Nam, pháp luật đã quy định tại Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 một số tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng như số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo; doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp các dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp… Nhãn hiệu nổi tiếng là thành quả đầu tư và là tài sản có giá trị rất lớn của các chủ sở hữu nhãn hiệu khi đã xây dựng được một nhãn hiệu mạnh được biết đến rộng rãi không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được biết đến rộng rãi trên thị trường quốc tế, mang tính toàn cầu. Chính bởi vậy, các nhãn hiệu này thường xuyên bị làm giả mạo hoặc bị xâm phạm, ảnh hưởng lớn đến uy tín của chủ sở hữu nhãn hiệu. Do đó, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ theo quy chế đặc thù như quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký; phạm vi bảo hộ của một nhãn hiệu nổi tiếng rộng hơn nhãn hiệu thông thường và bao trùm cả các sản phẩm, dịch vụ không cùng loại. Mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa hoặc dịch vụ bất kỳ, dịch vụ không cùng loại, không tương tự, không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng có thể bị coi là xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn trừ khi nó bị chứng minh là không nổi tiếng.