Kết thúc điều tra là thời điểm Cơ quan điểu tra đã hoàn thành việc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra theo luật định. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải ra một trong các quyết định: đình chỉ điều tra vụ án hoặc quyết định đề nghị truy tố. Hai quyết định này có giá trị chấm dứt giai đoạn điều tra.
1. Đình chỉ điều tra
Đình chỉ điều tra là chấm dứt việc điều tra đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can của vụ án đó khi có các căn cứ luật định. Quyết định đình chỉ điều tra sẽ kết thúc việc tiến hành tố tụng đối với bị can hoặc đối với vụ án bị đình chỉ. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
– Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan. Quyết định đình chỉ điều tra sẽ kết thúc việc giải quyết vụ án (trừ trường hợp quyết định này sau đó bị hủy bỏ bởi Viện kiểm sát). Do đó, các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, các biện pháp cưỡng chế cũng cần phải chấm dứt (bị hủy bỏ) kịp thời nhằm khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của bị can.
– Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hổi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định.
2. Đề nghị truy tố
Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định bị can phạm tội thì Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận. Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời hạn tạm giữ, tạm giam, các vật chứng của vụ án, các vấn đề dân sự của vụ án, biện pháp bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường thiệt hại và tịch thu tài sản nếu có. Bản kết luận điều tra phải ghi nhận đẩy đủ thông tin về tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc đề nghị truy tố, cụ thể gồm: diên biến hành vi phạm tội; chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật Hình sự được áp dụng; những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án.
Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.