1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là phương châm, định hương cơ bản chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn tố tụng trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật tổ tụng hình sự, bảo đảm dân chủ, công bằng, tôn trọng quyền con người, quyền tiếp cận công lý của người dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo phản ánh yêu cẩu khách quan của đời sống xã hội, được thể chế hóa bằng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự, các quan hệ tố tụng hình sự cũng như đối với các hình thức và phương thức thực hiện những hoạt động và quan hệ tố tụng đó. Việc nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để xây dựng các nguyên tắc cơ bản và ghi nhận trong Luật tố tụng hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chỉ đạo thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự. Xa rời các nguyên tắc cơ bản sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý giải quyết vụ án nhanh chóng mà xem nhẹ việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự mang tính điều chỉnh vĩ mô thể hiện ở phương châm, định hướng, tư tưởng chung của Luật tố tụng hình sự; chi phối tất cả hoặc chỉ điều chỉnh một giai đoạn hoặc một số hoạt động nhất định của tố tụng hình sự mà không phải toàn bộ quá trình tố tụng hình sự; được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động trong tố tụng hình sự. Các nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự mà còn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn. Nói chung, trong tố tụng hình sự, một số nguyên tắc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Ngoài việc được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, một số nguyên tắc còn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác liên quan như Luật Tổ chức Tòa án nhân dần, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân…
Là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam nên tố tụng hình sự không chỉ chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của pháp luật, như: nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật… mà còn bị chi phối bởi các nguyên tắc riêng của một ngành luật độc lập, như nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội; nguyên tắc xác định sự thật của vụ án…
2. Ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
– Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự góp phần bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng thực hiện một cách thống nhất;
– Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong tố tụng hình sự;
– Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự góp phần động viên, tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tăng cường dân chủ trong tố tụng hình sự;
– Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự góp phần định hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự.
3. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Hiện nay có nhiều cách phân loại khác nhau về các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, tùy thuộc vào tiêu chí phân loại như:
– Nhóm nguyên tắc đặc thù và nhóm nguyên tắc khác;
– Nhóm nguyên tắc hiến định và các nguyên tắc khác;
– Nhóm nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự; nhóm nguyên tắc bảo đảm quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng; nhóm nguyên tắc bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và nhóm nguyên tắc bảo đảm cho việc xét xử vụ án hình sự…;
– Nhóm nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; nhóm nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nhóm nguyên tắc bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng; nhóm nguyên tắc bảo đảm dân chủ trong hoạt động tố tụng;
– Nhóm các nguyên tắc cơ bản và nhóm các nguyên tắc thông thường. Nhóm các nguyên tắc cơ bản bao gồm những nguyên tắc được quy định tại Chương II (từ Điều 7 đến Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Nhóm các nguyên tắc khác không được quy định tại Chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhưng lại nằm rải rác ở các chương khác, như nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục quy định tại Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tác giả cho rằng sự phân loại các nguyên tắc dù ở cách này hay cách khác cũng chỉ mang tính chất tương đối. Thực tế cho thấy, có nguyên tắc mà nội dung của nó thể hiện nhiều tính chất và có thể xếp được ở các nhóm khác nhau. Do vậy, trong bài viết này, tác giả phân loại nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự theo kết cấu của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ chức và công dân được quy định tại khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong tố tụng hình sự, nguyên tắc này một lân nữa được ghi nhận tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
3.2. Các nguyên tắc trực tiếp bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
3.2.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận.
Cụ thể hóa tư tưởng của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, đồng thời là định hướng cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận và quy định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân là một trong những nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Luật tố tụng hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, thể hiện rõ quyền lực nhà nước. Trong quá trình tố tụng, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành những hoạt động tố tụng và ra những quyết định tố tụng có tính bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có liên quan. Trong các hoạt động và quyết định đó, có những hoạt động và quyết định “động chạm” đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã được Hiến pháp quy định. Đó là quyền năng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều đó đòi hỏi phải xác định trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Theo đó, khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.
Xem thêm: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
3.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy định cụ thể, thiết lập về quyền được đối xử một cách công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đêu không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Vấn đề này được nêu rõ trong Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, theo đó: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này”.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã ghi nhận và quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí của mọi người là như nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội cũng như khi tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, không có sự phần biệt.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
3.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được quy định trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta và ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR); Công ước quốc tế vê’ các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984 (CAT)… Đáp ứng đòi hỏi: “phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất cứ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình” và “tra tấn được coi là một tội phạm hình sự”, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những quy định phù hợp. Theo đó, Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng… mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhấn phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
3.2.4. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
Quyền sống, quyền được an toàn về sức khỏe, quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, quyền về tài sản của cá nhân là những quyền con người cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và Hiến pháp năm 2013. Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân là đối tượng bảo vệ không chỉ của pháp luật hình sự mà còn là đối tượng bảo vệ của pháp luật tố tụng hình sự. Khác với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ngoài việc quy định về bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân còn quy định về bảo hộ danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Khi đã là chủ thể của trách nhiệm hình sự thì trong hoạt động tố tụng hình sự, các pháp nhân thương mại cũng có khả năng trở thành nạn nhân của những hành vi trái pháp luật xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của họ.
3.2.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm vẽ chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân là nhóm quyền con người liên quan đến đời sống riêng tư của các cá nhân trong xã hội. Do đó, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc này.
3.2.6. Nguyên tắc suy đoán vô tội
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận trang trọng tại Điều 31 rằng: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Quy định này của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đó là: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản ấn kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Có thể thấy rằng, “người bị buộc tội” là một thuật ngữ pháp lý mới, được ghi nhận ngay trong Hiến pháp và Bộ luật Tổ tụng hình sự, cho thấy sự phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự và chuẩn mực chung được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia.
Xem thêm: Nguyên tắc suy đoán vô tội
3.2.7. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, đổng thời kế thừa và phát huy mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được quy định tại khoản 4 Điều 107, không được khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Quy định này phù hợp với Công ước quốc tế vê’ các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”.
Xem thêm: Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
3.2.8. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Nội luật hóa Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên, theo đó, trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng về việc không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Kế thừa Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ cũng như đặc điểm và truyền thống lập pháp nước ta, về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, mô hình tố tụng hình sự không thừa nhận tư tố, thỏa thuận nhận tội như ở một số mô hình tố tụng hình sự khác. Do đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan công quyền, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứ không thuộc về người bị buộc tội.
Xem thêm: Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
3.2.9. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Quyền bào chữa luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định tại Điểu 12 nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”; nguyên tắc này được quy định tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng diện người được hưởng quyền bào chữa là người bị tạm giữ. Tuy nhiên, việc mở rộng ấy vẫn chưa bao quát hết được những người bị buộc tội cần phải có người bào chữa, như người bị tình nghi, bị bắt, người bị tố giác..; cũng như điều luật chưa xác định cụ thể cách thức cơ quan tiến hành tố tụng giúp người buộc tội tiếp cận với người bào chữa đê’ giúp đỡ họ.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền bào chữa, đó là: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”, và đã xác lập tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Người bị buộc tội có quyên tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyên và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
3.3. Các nguyên tắc quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự
3.3.1. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Điều 17 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là những chủ thể được Nhà nước giao thực hiện các hoạt động tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngoài các chủ thể này ra thì không một cơ quan nào khác được phép sử dụng quyền lực nhà nước để khởi tố, điều tra… Mặt khác, mọi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều có thể dẫn đến việc oan, sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, giảm lòng tin của người dân vào sự công minh của pháp luật.
Xem thêm: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
3.3.2. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Trong quá trình tiến hành tố tụng, để bảo đảm phát hiện nhanh chóng và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự.
Xem thêm: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
3.3.3. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hoạt động điều tra vụ án, yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra tại Điều 19. Nhiệm vụ trong giai đoạn điều tra khá nặng nề; ở giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tiến hành điều tra làm rõ tất cả mọi tình tiết liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử vụ án, đồng thời phải xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội và kiến nghị các biện pháp khắc phục, phòng ngừa đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan. Tuy nhiên, việc thực hiện các nhiệm vụ điều tra không thể tiến hành một cách tùy tiện, vượt quá khuôn khổ, phạm vi quy định của pháp luật, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự. Vì vậy, việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là đòi hỏi tất yếu, bảo đảm cho hoạt động điều tra khách quan, toàn diện, khắc phục được tình trạng lạm dụng, vi phạm gây ra hậu quả tiêu cực trong quá trình điều tra giải quyết vụ án.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là cơ sở, tạo điều kiện để hoạt động điều tra diễn ra được khách quan, toàn diện, không thiên vị, góp phần quan trọng để vụ án được giải quyết công bằng, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời, nguyên tắc này còn có ý nghĩa bảo đảm pháp chế, bảo đảm công lý, bảo vệ quyền con người; bảo đảm thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra được khôi phục
Xem thêm: Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
3.3.4. Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng đặc trưng của Viện kiểm sát. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trên cơ sở quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dấn thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp… Viện kiểm sát nhân dấn có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhấn, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
3.3.5. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành, người tham gia tố tụng
Vô tư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là điều kiện quan trọng để có một thủ tục tố tụng công bằng, khách quan, là yếu tố nền tảng để củng cố niềm tin của những người tham gia tố tụng và xã hội đối với hoạt động của cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, là yêu cầu không thể thiếu được của một Nhà nước pháp quyền.
Bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trên cơ sở quy định này, Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định những trường hợp phải thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng và những trường hợp phải thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến, người làm chứng…
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành, người tham gia tố tụng
3.4. Các nguyên tắc điều chỉnh cho hoạt động xét xử
3.4.1. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Để bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Cụ thể hóa quy định này, Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia.
Xem thêm: Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
3.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc hiến định quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với tư cách là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Độc lập xét xử được xuất hiện từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp của Montesquyeu. Ông cho rằng “không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp”, độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Quyền tư pháp thực hiện sự phán quyết về những vấn đê’ mang tính tư pháp, thông thường và chủ yếu là do Tòa án thực hiện. Độc lập xét xử bao gổm các thành tố cơ bản sau: độc lập của quyền tư pháp, độc lập của thiết chế thực hiện quyền tư pháp, độc lập của những người thực hiện quyền lực tư pháp. Hay nói cách khác, độc lập của quyền tư pháp với các quyền lực nhà nước khác, độc lập của cơ quan Tòa án với các cơ quan quyền lực khác cũng như giữa các cơ quan Tòa án với nhau, độc lập của Thẩm phán. Tòa án được thiết lập để thực hiện quyền tư pháp, nên Tòa án phải độc lập với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, không bị giám sát, kiểm soát, lệ thuộc về mặt nhận định, tổ chức, nhân sự, kinh phí…
Xem thêm: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
3.4.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể
Để bảo đảm cho việc xử lý vụ án được thận trọng, khách quan, chống độc đoán, Điểu 24 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”.
Xem thêm: Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể
3.4.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai
Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thiết lập mới nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai như sau: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đểu có quyền tham dự phiên tòa…”. Nguyên tắc này xuất phát từ quy định của Hiến pháp năm 2013, đó là: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai còn được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Xem thêm: Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai
3.4.5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 5 Điều 103, đó là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”; được cụ thể hóa tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Yêu cầu của nguyên tắc: các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh, và thực hiện các quyền và nghĩa khác do pháp luật quy định để làm rõ sự thật của vụ án; Tòa án phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ khi tranh tụng dân chủ trước phiên tòa.
Xem thêm: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
3.4.6. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Kế thừa quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, trên cơ sở quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Nguyên tắc này cũ nguyên tắc hoạt động cơ bản của Tòa án tại hầu hết các nước trê ế giới, pháp luật các nước đều quy định đương sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đểu có quyển yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật”(khoản 5 Điều 14).
Xem thêm: Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
3.4.7. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, tùy theo từng vụ án mà Tòa án ra bản án hoặc các quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án. Bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
3.4.8. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người tham gia tố tụng được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Để việc tiến hành tố tụng có hiệu quả, tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản (Điều 29).
Xem thêm: Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
3.4.9. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục quy định nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tại Điều 30, là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, bảo đảm giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn và tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng…; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Xem thêm: Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
3.5. Các nguyên tắc liên quan đến việc giải quyết hệ quả của việc vi phạm trong hoạt động tố tụng hình sự
3.5.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, khi một người qua một quyết định chung thẩm bị kết án về một tội hình sự và sau đó bản án bị hủy bỏ hoặc nếu người đó lại được tuyên là vô tội… thì người đã phải chịu hình phạt theo bản án đó, theo luật, có quyền yêu cầu được bổi thường… Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các chủ thể này phải xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đẩy đủ. Trong quá trình tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Trong thực tiễn tố tụng, không loại trừ những trường hợp làm oan, sai ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, cho nên cùng với việc quy định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cần phải quy định về quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người tham gia tố tụng trong các trường đó.
Nguyên tắc này hiện nay được quy định tại khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
3.5.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo vối cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Quyền khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức và quyền tố cáo của cá nhân đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó được cụ thể hóa tại Điều 32 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Xem thêm: Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
3.5.3. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự
Để bảo đảm cho việc thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu quả, tất cả các hoạt động tố tụng hình sự của các chủ thể đều phải được kiểm tra, giám sát. Việc giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trước đây đã được đê’ cập trong Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Đó là một trong những nội dung của nguyên tắc “Việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân”. Nội dung này đã được tách ra thành nguyên tắc cơ bản và được bổ sung đầy đủ, rõ ràng hơn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị vê’ “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”: “Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp”. Kế thừa những quy định trên, tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, ngoài nội dung giám sát của cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử, nguyên tắc này còn bổ sung nội dung kiểm tra của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.