1. Bị cáo là gì?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng, quyết định truy tố (trong trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn) do Viện kiểm sát chuyển đến, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn theo quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Nếu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì xuất hiện tư cách bị cáo. Như vậy, bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Cũng như khái niệm bị can, khái niệm bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng được áp dụng đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trên thực tế, bị cáo cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
2. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo
2.1. Quyền của bị cáo
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị cáo có các quyền sau:
– Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Đưa vụ án ra xét xử là một trong các quyết định của Thẩm phán sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm thay đổi địa vị pháp lý của người bị truy tố (bị can) sang địa vị pháp lý của bị cáo để xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm.
Trên cơ sở nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử, thời gian, địa điểm mở phiên tòa, tên của những người tham gia tiến hành tố tụng, vật chứng cần xem xét tại phiên tòa V.V.. Qua đó, bị cáo mới có thể thực hiện các quyền của mình như quyền tham gia phiên tòa, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, quyển yêu cẩu xem xét thêm vật chứng mới… và nhất là quyền được bào chữa. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu không được bảo đảm quyền này, bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa.
Bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Các quyết định này là căn cứ pháp lý để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến các quyết định đó.
– Tham gia phiên tòa;
Là người bị buộc tội tại phiên tòa, bị cáo bình đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cẩu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Quyền tham gia phiên tòa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của bị cáo và chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp luật định, những trường hợp khác phải hoãn phiên tòa.
– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ;
Sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa. Bị cáo cần phải được biết họ có các quyền và nghĩa vụ gì để họ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó theo đúng quy định của pháp luật.
– Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
Kết luận giám định, định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, là một trong những cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tố tụng giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Do vậy, bị cáo có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự, quyền và lợi ích hợp pháp của mình; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết, nếu không chấp nhận phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do; có quyền đề nghị triệu tập người tham gia tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa để làm rõ nội dung của vụ án.
Là đối tượng bị đưa ra xét xử, là người bị buộc tội trong vụ án hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật khi có căn cứ rõ ràng để cho rằng những người này có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên tòa xét xử trước khi Hội đồng xét xử xét hỏi. Chánh án Tòa án, Hội đồng xét xử phải xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo, khi cẩn thiết Hội đổng xét xử phải hoãn phiên tòa.
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Những chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà bị cáo đưa ra thường là chứng cứ gỡ tội, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đổ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Ngoài ra, bị cáo cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét, yêu cẩu hoãn phiên tòa… Các yêu cầu này phải được Tòa án xem xét, giải quyết.
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa;
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thê hiện rõ nét nhất qua việc bị cáo tự bào chữa, nhờ người bào chữa tại phiên tòa. Đó là chỗ dựa về pháp lý, tinh thần, kiến thức, niềm tin để công khai đứng ra bảo vệ mình và chống lại sự buộc tội. Trong quá trình tranh luận tại phiên tòa, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Việc tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo không chỉ là bảo đảm quyền lợi cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong tố tụng hình sự mà còn là điều kiện quan trọng để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
– Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
Việc bị cáo được đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý giúp bị cáo chủ động hơn trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình tại phiên tòa. Bị cáo có quyền tranh luận, đưa ra những lập luận của mình và đối đáp với những ý kiến không thống nhất của các chủ thể khác.
– Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
Nói lời sau cùng là quyền của bị cáo sau khi Hội đồng xét xử kết thúc xét hỏi và tranh luận. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bị cáo được nói lời sau cùng trước khi nghị án là tạo điều kiện để bị cáo có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước khi Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyển trình bày mọi vấn đê’ liên quan đến vụ án, tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội V.V.. Hội đồng xét xử phải chú ý và tôn trọng quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Nhiều trường hợp, khi nói lời sau cùng, bị cáo lại đưa ra những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, khi đó Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
– Xem biên bản phiên tòa, yêu cẩu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
Biên bản phiên tòa ghi chép đầy đủ diễn biến của phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa, trong đó thể hiện đầy đủ các câu hỏi, câu trả lời, lời trình bày và quyết định tại phiên tòa. Bị cáo được xem biên bản phiên tòa sau khi chủ tọa phiên tòa và thư ký đã ký vào biên bản đó. Để tránh những sai sót trong việc ghi chép diễn biến tại phiên tòa, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. Nếu phát hiện ra những sai sót ghi trong biên bản phiên tòa, bị cáo yêu cẩu Thư ký Tòa án ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. Những sửa đổi, bổ sung này phải được ghi vào cuối biên bản phiên tòa và phải được chủ tọa phiên tòa cùng ký xác nhận. Nếu chủ tọa phiên tòa không chấp nhận yêu cầu thì phải nêu rõ lý do và ghi vào biên bản phiên tòa.
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là biểu hiện sự không đồng ý của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm xét xử lại vụ án. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là phương thức để bị cáo bày tỏ sự không đồng tình của mình đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án, tạo điều kiện để bị cáo tiếp tục đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đối với mình, đổng thời khắc phục những thiếu sót, sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo (nếu có). Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật tố tụng hình sự quy định, nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng khác thì Tòa án cấp phúc thẩm không được sửa án theo hướng bất lợi cho bị cáo.
– Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là việc bị cáo đê’ nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy, không phải mọi quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bị cáo có quyển khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Quyết định tố tụng bị khiếu nại là quyết định được ban hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, mà bị cáo có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Những quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như khiếu nại về lệnh bắt, lệnh tạm giam, quyết định phê chuẩn việc bắt, tạm giam, lệnh gia hạn tạm giam và khiếu nại liên quan đến việc thực hiện các lệnh hoặc quyết định đó…
Hành vi tố tụng bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, mà bị cáo cho rằng hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét và giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời phải thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết khiếu nại cho bị cáo biết.
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Nghĩa vụ của bị cáo
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị cáo có các nghĩa vụ sau:
– Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
Xem thêm: Bị can là gì? Quyền và nghĩa vụ của bị can theo quy định