1. Lây truyền HIV là gì?
Lây truyền HIV là hành vi của một người biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác.
Tội lây truyền HIV cho người khác được quy định tại Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
Điều 148. Tội lây truyền HIV cho người khác
1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này;
c) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
d) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Các yếu tố cấu thành tội lây truyền HIV cho người khác
Cấu thành tội phạm gồm 04 yếu tố, bao gồm: mặt khách thể, mặt chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan.
2.1. Mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại đến bằng cách gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đối với quan hệ xã hội đó.
– Khách thể chung của tội lây truyền HIV cho người khác là trật tự, an toàn xã hội và quyền con người. Tội này xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.
– Khách thể loại của tội lây truyền HIV cho người khác là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người.
– Khách thể trực tiếp của tội lây truyền HIV cho người khác là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của con người. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Đối tượng tác động của tội lây truyền HIV cho người khác là tính mạng, sức khỏe, thân thể, nhân phẩm và danh dự của con người.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Trước hết, khi xét về hành vi thì người bị nhiễm HIV đã biết rõ mình bị nhiễm HIV nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi truyền HIV vào cơ thể người khác HIV là loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. HIV có thể lây truyền quan hệ tình dục, qua dòng máu hoặc truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ và cho con bú, dưới các hình thức được xác định là đường lây truyền HIV như: Quan hệ tình dục, cho máu hoặc qua các tác nhân trung gian khác (như kim tiêm, dao cạo râu, …) của chính mình sử dụng dẫn đến truyền HIV cho người khác.
Bên cạnh đó, cần lưu ý một số khái niệm sau:
– Việc làm lây truyền HIV phải từ chính cơ thể người phạm tội sang cơ thể người bị hại là dấu hiệu đặc trưng của tội này.
– HIV: theo tiếng Anh là “Hunam immunodeficiency virus”, có nghĩa là vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
– SIDA: theo tiếng Pháp là “Sydrome Immuno Déficitaire Acquis”, có nghĩa là Hội chứng suy giảm miễn dịch, căn bệnh dần làm mất khả năng miễn dịch ở người gây tử vong.
– AIDS: Theo tiếng Anh là “Acquiredd Immune Deficiency Syndro”. Bị nhiễm HIV ở giai đoạn cuối, có khả năng gây tử vong cao.
Hậu quả gây ra là người bị truyền HIV bị nhiễm HIV là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội, nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi cố ý truyền HIV cho người khác nhưng nạn nhân lại không bị nhiễm HIV thì thường không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nhưng đây không phải là trường hợp bắt buộc trong mọi trường hợp. Việc xác định người bị hại có bị nhiễm HIV hay không là căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, nếu kết quả giám định của Hội đồng giám định còn có những vấn đề chưa rõ thì yêu cầu giám định lại.
Việc xác định người bị hại có nhiễm HIV hay không không được chỉ dựa vào việc người phạm tội có nhiễm HIV và phương pháp người đó đã lây truyền HIV cho bị hại mà phải căn cứ vào kết luận của của Hội đồng giám định pháp y. Trường hợp kết luận giám định pháp y có điểm chưa rõ thì cần phải yêu cầu giám định lại. Kết luận của Hội đồng giám định pháp y là yếu tố tiên quyết để làm căn cứ xác định tội danh này.
2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội lây truyền HIV cho người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội phải biết là mình bị nhiễm HIV và họ cũng biết hành vi mà mình thực hiện có khả năng là cho HIV từ mình lây truyền sang người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu người phạm tội bị nhiễm HIV, nhưng không biết mình nhiễm mà lây truyền HIV cho người khác thì chưa cấu thành tôi phạm này.
2.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
3. Hình phạt áp dụng đối với tội lây truyền HIV cho người khác
Tội lây truyền HIV cho người khác có 02 khung hình phạt, cụ thể:
Khung | Hình phạt | Hành vi |
---|---|---|
Khung 1 (Khung hình phạt cơ bản) | Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm | Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục |
Khung 2 (Khung hình phạt tăng nặng) | Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm | Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Đối với 02 người trở lên; b) Đối với người dưới 18 tuổi nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015; c) Đối với phụ nữ mà biết là có thai; d) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình; đ) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. |