1. Căn cứ pháp lý
Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi ngăn cản, gây khó khăn cho việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện.
Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được quy định tại Điều 335 Bộ luật hình sự 2015:
Điều 335. Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự
1. Người nào cố ý cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc trong thời chiến, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Cấu thành tộ phạm của tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự
2.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm chính sách, chế độ đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện của Nhà nước, xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan quân sự có thẩm quyền ở địa phương trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan của tội này là hành vi cản trở việc thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện. Được coi là cản trở khi cổ ý thực hiện các hành vi như dùng lời nói, việc làm để khống chế, đe doạ, ngăn cản, gây khó khăn trở ngại cho người phải thực hiện nghĩa vụ quân sự đến đăng ký nghĩa vụ quân sự, gây khó khăn trở ngại cho cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, thi hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện.
– Hậu quả của hành vi phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện mà gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm khoản 1 Điều 52 BLHS.
2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Người phạm tội có thể xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau như vì động cơ vụ lợi cá nhân hoặc vì các động cơ khác.
2.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là những người được gọi nhập ngũ, người được gọi tập trung huấn luyện nhưng cũng có thể là người khác. Do vậy, chủ thể của tội này không phải là chủ thể đặc biệt, đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS theo quy định của BLHS.
3. Hình phạt
Về hình phạt, trong cấu thành cơ bản của tội này (khoản 1) quy định hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm (khoản 1); nếu có tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc trong thời chiến thì người phạm tội bị phạt tù từ một năm đến năm năm (khoản 2). Tình tiết “ lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy định tại khoản 2 Điều này được hiểu là việc người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn và ảnh hưởng phát sinh từ chức vụ, quyền hạn đó để cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, lệnh gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện đối với người chịu ảnh hưởng.
Ví dụ: Giám đốc công ty vì lợi ích cục bộ của đơn vị đã ngăn cản nhân viên hoặc người lao động dưới quyền thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự.