Từ khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu như hòa giải không thành, Tòa án phải củng cố, hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. Các hoạt động này của Tòa án được gọi là chuẩn bị xét xử.
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử là bao lâu?
Theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
(i) Đối với các vụ án tranh chấp về dân sự và tranh chấp về hôn nhân và gia đình thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
(ii) Đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại và tranh chấp về lao động thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại (i) và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại (ii)
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:
– Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
– Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
– Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
– Đưa vụ án ra xét xử.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Khoản 2 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, cụ thể:
– Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
– Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
– Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
– Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
– Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
– Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
– Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.