1. Định nghĩa
Quan hệ pháp luật tài chính là quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật tài chính.
2. Cơ cấu của quan hệ pháp luật tài chính
Nếu quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội, chúng thể luật là kết quả của sự tác động, điều chỉnh của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội. Do vậy, các quan hệ pháp luật vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan thể hiện ở chỗ, các quan hệ pháp luật trước hết chúng là các quan hệ xã hội, hình thành một cách khách quan do nhu cầu tất yếu của các mối liên kết xã hội giữa các thành viên trong xã hội (yếu tố chủ thể) nhằm hướng tới một lợi ích nào đó (yếu tố khách thể). Tính chủ quan thể hiện ở sự điều chỉnh, sự tác động mang tính chủ quan của Nhà nước, thông qua các quy phạm pháp luật – cũng là một sản phẩm của ý chí chủ quan, làm hình thành nên các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên trong quan hệ pháp luật (nội dung của quân hệ pháp luật). Và vì vậy cơ cấu của quan hệ pháp luật tài chính cũng như các quan hệ pháp luật khác gồm các yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung quan hệ, phản ánh tính khách quan và chủ quan nói trên.
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính là những người (tổ chức và cá nhân) tham gia vào các quan hệ pháp luật tài chính. Các chủ thể này rất nhiều loại, xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ tài chính, gồm có:
– Nhà nước: Nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật tài chính với tư cách là tổ chức quyền lực công. Và do vậy trong các sách báo pháp lý người ta thường coi “Nhà nước là chủ thể đặc biệt của các quan hệ pháp luật“.
Trong lĩnh vực tài chính, Nhà nước chính là người tiến hành các hoạt động tài chính và là người tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động tài chính của các chủ thể khác (đã phân tích trong phần hoạt động tài chính của Nhà nước). Vai trò là tổ chức mang quyền lực chính trị của Nhà nước trong các quan hệ pháp luật tài chính thể hiện ở chố, Nhà nước tự cho phép mình có quyền tham gia vào việc phân phối và tái phân phối giá trị sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do xã hội sáng tạo ra, Nhà nước đặt ra pháp luật để điều chỉnh hoạt động của bản thân mình và hoạt động của các chủ thể khác trong các quan hệ tài chính.
Tất nhiên, Nhà nước – chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính không phải là một chủ thể trừu tượng, mà là các cơ quan Nhà nước cụ thể, được lập ra để đại diện cho Nhà nước thực thi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tài chính.
– Pháp nhân: Có thể nói tất cả các tổ chức là pháp nhân đều tham gia vào các quan hệ tài chính ở các mức độ khác nhau và trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính.
Các pháp nhân gồm: cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; tổ chức kinh tế; quỹ xã hội, quỹ từ thiện”.
Các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang là chủ thể của các quan hệ pháp luật tài chính về ngân sách, khi nhận kinh phí từ ngân sách Nhà nước. Chúng cũng có thể trở thành chủ thể trong quan hệ thu nộp thuế, tín dụng trong một số trường hợp.
Tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế là chủ thể thường xuyên của các quan hệ pháp luật tài chính về nhận vốn từ ngân sách Nhà nước (đối với các doanh nghiệp Nhà nước), quan hệ thu nộp thuế, tín dụng, bảo hiểm, tham gia thị trường tài chính vv...
Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các quỹ xã hội, quỹ từ thiện là chủ thể của các quan hệ pháp luật tài chính khi một số tổ chức này nhận kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, các quan hệ trong quản lý tài chính, hình thành và quản lý quỹ ...
– Hộ gia đình, tổ hợp tác: Trong những điều kiện của thì các tổ hợp tác, các hộ gia đình cũng được quan niệm như một “đơn vị kinh tế“, là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và cũng là chủ thể quan hệ pháp luật tài chính trong các quan hệ thu nộp thuế, vay vốn tín dụng ... Tuy nhiên các Tổ hợp tác và hộ gia đình khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự hay tài chính phải thông qua đại diện của hộ gia đình hoặc tổ hợp tác.
– Cá nhân: Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính. Các cá nhân gồm : công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch đều có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính. Tất nhiên trong số đó công dân Việt Nam là chủ thể chủ yếu nhất. Trong những điều kiện của nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường hiện nay, công dân ngày càng có nhiều cơ hội và khả năng tham gia các quan hệ pháp luật tài chính. Công dân không phải chỉ đơn thuần là chủ thể trong các quan hệ thu nộp thuế như trước đây mà họ còn có thể trở thành các cô đông, người sở hữu trái phiếu, tín phiếu hay tham gia các quan hệ bảo hiểm... góp phần tích cực vào hình thành và phát triển thị trường tài chính. Trong những điều kiện hiện nay nếu Nhà nước có các chính sách và cơ chế phù hợp để khơi dậy tiềm năng, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, thì công dân sẽ là những chủ thể rất quan trọng trong đầu tư tài chính thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiền tiết kiệm ... phạm vi các quan hệ tài chính mà họ tham gia ngày càng rộng thì lợi ích mà họ mang lại cho phát triển nền kinh tế đất nước ngày càng lớn.
Người nước ngoài và người không có quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, trong những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật cũng trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính cụ thể, ví dụ họ có thể trở thành chủ thể nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, nếu thu nhập của họ đến mức phải nộp thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam.

2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật tài chính
“Khách thể của quan hệ pháp luật là những gì mà các bên chủ thế mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật“.
Các quan hệ pháp luật tài chính, xét về bản chất, trước hết chúng là các quan hệ kinh tế, phản ánh các lợi ích kinh tế mà các chủ thể tham gia quan hệ nhằm hướng tới.
Nói cụ thể hơn, các quan hệ pháp luật tài chính là các phạm pháp luật tài chính điều chỉnh, cái mà các bên nhằm đạt được trong các quan hệ này là những nguồn vốn tiền tệ nhất định. Như vậy “tiền tệ là khách thể của quan hệ pháp luật tài chính.
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tài chính là nhằm hình thành, chuyển giao hay sử dụng các nguồn tiền tệ. Tuy nhiên không phai trong mọi quan hệ pháp luật tài chính đều có sự chuyển giao đối tượng tiền tệ cụ thể. Có những quan hệ pháp luật tài chính, các chủ thể không chuyển giao cho nhau hay trực tiếp sử dụng các nguồn tiền tệ (chẳng hạn như các quan hệ trong phân cấp quản lý ngân sách giữa các cơ quan chính quyền Nhà nước các cấp), nhưng điều mà các chủ thể hướng tới, muốn đạt được vẫn là việc phân chia các nguồn thu, chi của ngân sách Nhà nước.
Ngoài tiền tệ, các giấy tờ có giá trị giá được bằng tiên) như các cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, ngân phiếu, thẻ bảo hiểm vv... cũng là khách thể của các quan hệ pháp luật tài chính.
2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật tài chính
Nội dung của một quan hệ pháp luật nói chung bao giờ cũng là quyền và nghĩa vụ mang tính pháp lý, tức là nó được thiết lập trên cơ sở pháp luật và được pháp luật bảo đảm thực hiện.
Nội dung của quan hệ pháp luật tài chính là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được xác lập khi tham gia quan hệ. Đối với các quan hệ tài chính công, các quyền và nghĩa vụ này có đặc điểm là chúng không phải là sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể mà hầu hết chúng được quy định trước trong pháp luật. Khi tham gia vào một quan hệ pháp luật tài chính cụ thể, các chủ thể được hưởng các quyền hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mà không được tự ý xác lập hoặc thay đổi trái với pháp luật. Chính vì vậy, các quan hệ pháp luật tài chính công chỉ có thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở pháp luật.
Đối với các quan hệ pháp luật tài chính được hình thành giữa các chủ thể độc lập, không phụ thuộc, không bị ràng buộc bởi yếu tố quyền lực Nhà nước thì khi tham gia các quan hệ pháp luật tài chính, chúng có thể thỏa thuận nhằm xác lập quan hệ, xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên.
Xem thêm: Quy phạm pháp luật tài chính là gì?