Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và được thể hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau của Nhà nước do luật hình sự quy định.
Loại trừ và miễn trừ trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
1. Loại trừ trách nhiệm hình sự
Loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp được quy định trong các điều của Bộ luật Hình sự về việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, khi có đủ các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, nhưng không bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi nguy hiểm đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự có các đặc điểm cơ bản như:
– Hành vi gây thiệt hại bị luật hình sự cấm và được quy định trong các điều luật cụ thể; (ii) Hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho xã hội nhưng được coi là hợp pháp về mặt pháp lý, do vậy, không bị coi là tội phạm, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác phải trong giới hạn của luật hình sự quy định;
– Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được thực hiện trong trường hợp cụ thể không bị coi là tội phạm phải có đủ các căn cứ do Bộ luật Hình sự quy định. Hành vi đó phải đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm mà pháp luật hình sự quy định như:
+ Tính trái pháp luật;
+ Tính chất lỗi;
+ Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện;
+ Hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội; đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Theo Khoản 2 Điều 8 BLHS 2015 còn quy định thêm “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là chế định không thể thiếu trong luật hình sự của mỗi quốc gia, có quan hệ chặt chẽ với chế định trách nhiệm hình sự cũng như các chế định khác để tạo thành cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý về các tội phạm đối với người thực hiện tội phạm khi có những điều kiện theo quy định của pháp luật”, như: Miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích.
Miễn trách nhiệm hình sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng văn bản) khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (viết tắt BLTTHS). Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án (bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 248 BLTTHS năm 2015 hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án theo Điều 285 BLTTHS năm 2015. Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 282 BLTTHS năm 2015.
Thứ ba, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án. Cụ thể, đó là cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án (các điều 230, 285 và 282 BLTTHS năm 2015), và tất nhiên phải đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định.
Thứ tư, miễn trách nhiệm hình sự luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
Thứ năm, người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội).
Thứ sáu, miễn trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, không chỉ thể hiện sự khoan dung nhân đạo sâu sắc của chính sách hình sự của Nhà nước ta, mà còn làm giảm “áp lực”, cường độ áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt khi có căn cứ pháp lý và những điều kiện cho phép miễn trách nhiệm hình sự.