Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định về quyền tác giả và các trường hợp giới hạn quyền tác giả nhằm đảm bảo quyền lợi cho tác giả cũng như các chủ thể khác có điều kiện đón nhận tác phẩm. Vậy, quyền tác giả bao gồm những quyền nào? Việc giới hạn quyền tác giả thể hiện ở những điểm nào?
1. Nội dung quyền tác giả
Để được bảo hộ, quyền tác giả phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ do Luật Sở hữu trí tuệ quy định. Quyền tác giả có những khác biệt so với quyền sở hữu tài sản vật chất hữu hình. Do đó, Luật Sở hữu trí tuệ quy định cụ thể nội dung, giới hạn quyền và thời gian bảo hộ quyền tác giả để cho mọi cá nhân, tổ chức hiểu rõ những quyền nào mà các chủ thể được hưởng đối với từng đối tượng được bảo hộ, những quyền này chịu những giới hạn và sự bảo hộ là vĩnh viễn hay trong một thời hạn nhất định.
Trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005, nội dung, giới hạn quyền và thời hạn quyền bảo hộ tác giả được xác định như sau:
1.1. Quyền nhân thân không thể chuyển giao
– Đặt tên cho tác phẩm: Đặt tên cho tác phẩm có ý nghĩa rất quan trọng. Tên tác phẩm thường thể hiện cô đọng nội dung, tinh thần của tác phẩm, ý tưởng chủ đạo mà tác giả muốn truyền đạt. Việc đặt tên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học còn nhằm cá biệt hoá các tác phẩm khác nhau, nhất là giữa các tác phẩm trong cùng một lĩnh vực sáng tác, cùng một loại hình nghệ thuật, cùng một tác giả. Tuy nhiên, quyền này không áp dụng đối với tác phẩm dịch.
– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm: được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. Đây là sự cá biệt hoá tác giả, khẳng định sự sáng tạo của mình với tác phẩm. Việc đặt tên thật hay bút danh, việc chọn bút danh như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của tác giả. Đối với loại hình tác phẩm đặc thù là chương trình máy tính việc đảm bảo quyền đứng tên gặp khó khăn vì số lượng người tham gia xây dựng chương trình thường rất lớn là đối với các chương trình có quy mô.
– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm, dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Như vậy, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm được hiểu là người khác không được làm sai lệch tác phẩm nếu không được sự đồng ý của tác giả. Để chứng minh cho yêu cầu về sự toàn vẹn tác phẩm của tác giả, tác giả phải chứng minh việc sửa chữa, xuyên tạc hoặc cắt xén tác phẩm phải làm biến dạng tác phẩm ban đầu, gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
1.2. Quyền nhân thân có thể chuyển giao
Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, đọc trước công chúng, một tác phẩm văn học, phát sóng tác phẩm văn học nghệ thuật, trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
1.3. Quyền tài sản
Quyền tài sản bao gồm các quyền sau:
– Làm tác phẩm phái sinh: Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được sáng tạo dựa trên tác phẩm khác, bao gồm tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Tác phẩm phái sinh được làm từ tác phẩm gốc. Do đó, tác giả là chủ sở hữu tác phẩm gốc có quyền cho hay không cho phép việc làm tác phẩm phái sinh, có quyền được hưởng lợi ích vật chất từ việc làm tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của mình.
– Biểu diễn tác phẩm trước công chúng: Đó là quyền của tác giả tự mình hoặc cho phép người khác trình bày tác phẩm của mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
– Sao chép tác phẩm: Tác giả tự mình hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử. Quyền này cũng bao hàm việc bảo hộ tác phẩm khỏi bị sao chép trái phép. Khái niệm sao chép tác phẩm phải được hiểu theo nghĩa rộng. Mọi hình thức để tạo ra các bản sao một phần hoặc toàn bộ tác phẩm chứ không chỉ là hình thức “chép đúng y như bản gốc”. Các hình thức sao chép tác phẩm như sao chụp, ghi âm, hay sao chép nội dung hình ảnh bằng máy quét, máy photocopy.
– Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: Quyền này cho phép tác giả tự mình hoặc cho phép người khác thực hiện việc phổ biến đến công chúng bản gốc, bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
– Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác: Quyền này cho phép công chúng có thể tiếp cận được tác phẩm tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.
– Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính: Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong các Điều ước quốc tế chỉ có quy định về quyền cho thuê đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nghe nhìn và chương trình máy tính. Tuy nhiên, không áp dụng quyền cho thuê đối với chương trình, khi bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình máy tính. Cũng không áp dụng quyền cho thuê đối với các tác phẩm điện ảnh, khi việc cho thuê thương mại dẫn đến việc sao chép tràn lan, ảnh hưởng đến quyền độc quyền sao chép và khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm.
Với các quyền trên, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu tự mình thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện trong trường hợp khi người khác thực hiện quyền họ có thể được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, các lợi ích khác theo thỏa thuận.
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, là người được chuyển giao quyền có các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Nếu không có thỏa thuận khác, người làm công việc đạo diễn, biên kịch, biên đạo múa, quay phim, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật trường quay, mỹ thuật sân khấu, thiết kế đạo cụ, kỹ xảo và các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu có các quyền nhân thân trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
2. Giới hạn quyền tác giả
Quyền tác giả được thừa nhận và bảo hộ theo quy định, tuy nhiên, để đảm bảo tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không lạm dụng những đặc quyền dành cho họ, đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích cộng đồng, bảo tồn và phát triển những giá trị chung ở một mức độ hợp lý, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước trên thế giới đều có những quy định giới hạn về quyền tác giả. Việc giới hạn thể hiện ở chỗ pháp luật quy định trong những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm được công bố mà không xin phép, không phải trả tiền bản quyền (nhuận bút, thù lao) cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, sử dụng tác phẩm được công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 25 và Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ). Tuy nhiên, việc sử dụng quyền này phải tuân theo những điều kiện và cách thức hợp lý do Luật Sở hữu trí tuệ và văn bản khác liên quan quy định.
Theo quy định tại Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
Một là, tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại.
Thư viện được sao chép để lưu trữ nhằm mục đích nghiên cứu không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng kể cả bản sao kỹ thuật số. Tuy nhiên, nếu người mượn sách của thư viện, sau đó tự sao chép một bản để phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy về cơ bản được xác định là hợp pháp.
Quy định này nhằm mục đích phổ biến tác phẩm đến công chúng thông qua hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, sử dụng có hiệu quả các tài sản trí tuệ của nhân loại, song việc khai thác không nhằm mục đích thương mại (phi lợi nhuận).
Pháp luật quy định “tự sao chép” nghĩa là việc sao chép đó do người sử dụng thực hiện nhằm mục đích của chính mình. Chẳng hạn sinh viên A thấy cuốn sách hay hoặc thấy đĩa dạy ngoại ngữ hay nên đã copy thêm mấy bản để tặng cho những người bạn thân trong lớp là xâm phạm quyền tác giả. Trong trường hợp này việc sao chép không nhằm mục đích thương mại nhưng vượt quá phạm vi sử dụng cá nhân và làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm.
Việc xác định thế nào là “mục đích thương mại” còn mơ hồ vì có thể sao chép hoặc sao chụp (photocopy) bán lại để thu lợi nhuận trực tiếp (bán giá thấp hơn giá bìa thì người phô tô lẫn người sử dụng đều có lợi). Về lợi nhuận, có thể thu lợi nhuận gián tiếp như cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đã thu toàn bộ tiền của người học, có nghĩa vụ phải cung cấp tài liệu cho người học nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả tiền quyền tác giả hoặc tài liệu xuất bản mà lại phô tô sách cho người học hoặc đánh máy lại in để phô tô cho người học sử dụng nhằm giảm chi phí. Trường hợp này cũng được xác định là có mục đích lợi nhuận mang tính chất gián tiếp.
Trường hợp sau có phải sao chép phục vụ nghiên cứu khoa học, giảng dạy hay không?
Hai bộ giáo trình TOEFLiBT và TOEIC (gồm 20 đầu sách có kèm đĩa) do Công ty Sáng tạo Trí Việt mua bản quyền từ Công ty Compass (Mỹ) đã bị hệ thống trường Ngoại ngữ Đ và trường ngoại ngữ A (thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn M) sao chụp làm giáo trình chính thức cho học viên. Đội kiểm tra đã phát hiện tám đầu sách được phô tô sẵn với số lượng trên 350 cuốn.
Theo bản tường trình của trường “Một số thầy, cô trong trường thấy giáo trình hay nên mua về nghiên cứu và giới thiệu cho học viên. Học viên thích và nhà trường phô tô để phổ biến nội bộ chứ không đủ tiền để mua sách ngoài”.
Theo phản ánh của học viên và biên nhận chúng tôi có trong tay (Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh) nhiều học viên đã phải mua sách phô tô từ hệ thống hai trường ngoại ngữ này với giá đắt hơn sách gốc do Nhà xuất bản Trẻ và Công ty văn hóa sáng tạo Trí Việt phát hành.
(Nguồn: Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20/10/ 2008).
Trong thực tế nhiều trường hợp phô tô (sao chụp) bán cho người học thấp giá in trên bìa hoặc phát miễn phí cho người học là xâm phạm quyền tác giả, có mục đích thương mại (trực tiếp hoặc gián tiếp). Quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định hướng dẫn phải “tự sao chép”, nghĩa là người cần nghiên cứu, giảng dạy sao chép một bản phục vụ cho chính mình.
Hai là, trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh hoạ trong tác phẩm của mình. Để đánh giá thế nào là hợp lý, Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định các yếu tố cần xem xét khi đánh giá tính hợp lý của việc trích dẫn như sau:
– Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình.
– Số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại quyền tác giả đối với tác phẩm được trích dẫn; phù hợp với tính chất đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
Tuy nhiên, khi trích dẫn tác phẩm “hợp lý” còn nhiều vướng mắc khi áp dụng pháp luật. Mức độ trích dẫn có thể trích dẫn một câu, một đoạn hay trích cả toàn bộ tác phẩm. Việc trích nguyên vẹn tác phẩm đã được công bố để minh hoạ, bình chú trong một tác phẩm khác được xem là trích dẫn hợp lý hay không? Chẳng hạn, ông A viết tác phẩm “Bình luận…” một vấn đề nào đó, trong đó trích dẫn toàn bộ 5 tác phẩm của 3 tác giả đã công bố, nêu rõ nguồn và có kèm theo lời bình. Cuốn sách được một nhà xuất bản in ấn, phát hành và trả nhuận bút cho tác giả (còn 3 tác giả có tác phẩm được trích dẫn hoàn toàn không biết). Như vậy, những thông tin trong tác phẩm không chỉ có những lời bình của tác giả A mà còn toàn bộ các thông tin của các tác phẩm được trích dẫn. Người có nhu cầu sử dụng, nghiên cứu rất thuận lợi, bởi lẽ thay vì phải mua năm tác phẩm đơn lẻ thì chỉ cần mua tác phẩm Bình luận của của tác giả A đã có đầy đủ các nội dung nhưng lợi ích kinh tế của các tác giả có tác phẩm bị trích dẫn nguyên vẹn phần nào bị ảnh hưởng (số lượng phát hành sẽ giảm đi). Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể hơn để tránh sự lạm dụng trong trích dẫn các tác phẩm và có cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp.
Trong “trích dẫn hợp lý” tác giả thể hiện ý kiến cá nhân của mình, còn trường hợp sưu tầm tác phẩm đã công bố của người khác để làm tuyển tập, hợp tuyển, sắp xếp theo một chủ đề nhất định có tính sáng tạo thì hoàn toàn không thể hiện ý kiến, quan điểm của tác giả. Pháp luật công nhận và bảo hộ quyền tác giả đối với tuyển tập, hợp tuyển không làm ảnh hưởng đến tác phẩm gốc.
Do pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể, trong thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau khi giải quyết vụ tranh chấp sau:
Ông N.Q.T phát hiện cuốn sách “Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận” (Nxb Hội Nhà văn) của ông Đ.T.T sử dụng bốn bài báo của mình mà không xin phép. Bốn bài báo này đã từng được đăng tại các tạp chí như Tạp chí Văn nghệ, Báo Văn nghệ và Tạp chí Văn học bao gồm: “Về bài Hoàn thiệng Xuân Hãn và việc khôi phục nguyên tác
Truyện Kiều” “Hãy trở lại đúng vấn đề nhận xét việc nghiên cứu Truyện Kiều”, “Một vài nhận xét về nghiên cứu Truyện Kiều của cố học giả Hoàn thiệng Xuân Hãn”… Sau đó 3 năm, Ban Quản lý di tích Nguyễn Du (tỉnh Hà Tĩnh) lại in lại cuốn sách trên.
Tranh chấp về quyền tác giả tại Tòa án về việc tác giả cuốn sách xâm phạm bản quyền tác phẩm văn học nghệ thuật.
Phiên toà sơ thẩm đã xác định có hành vi xâm phạm quyền tác giả khi “trích” nguyên vẹn bốn bài báo của ông T đã được đăng tải trên các báo, tạp chí, tuyên phạt ông Đ.T.T 25 triệu đồng tiền bản quyền, trả ông N.Q.T tiền nhuận bút một triệu đồng.
Bản án sơ thẩm bị kháng cáo vì cho rằng không có sự xâm phạm bản quyền. Đây là sự trích dẫn nhằm “bình chú, phê phán, thảo luận” như tiêu đề của tác phẩm chứ không lấy tác phẩm vì mục đích thương mại.
Phiên tòa phúc thẩm có quan điểm ngược lại, bài của ông N.Q.T khi đưa vào cuốn sách không bị cắt xén, sửa chữa, xuyên tạc và có đề tên tác giả (N.Q.T), “trích dẫn” nguồn rõ ràng không nhằm mục đích kinh doanh. Cuốn sách là một tác phẩm sáng tạo toàn diện của ông T. Việc trích dẫn bốn bài viết trong quyển sách của mình là không xâm phạm quyền tác giả của ông N.Q.T.
Ba là, trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.
Bốn là, trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại. Các trường hợp trích dẫn nêu trên phải đảm bảo không trở thành phần chính của tác phẩm mới, phần trích dẫn chỉ giới hạn trong phạm vi giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong tác phẩm của mình và phải ghi rõ tên tác giả, nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn.
Năm là, sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu (một bản).
Sáu là, biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
Bảy là, ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
Tám là, chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
Chín là, chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
Mười là, nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Các tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Việc sử dụng tác phẩm như vậy không áp dụng với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. Trường hợp tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm phải theo quy định chặt chẽ, không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Việc sử dụng như vậy không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh (Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ)