1. Cơ sở pháp lý
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc hiến định quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với tư cách là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Độc lập xét xử được xuất hiện từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp của Montesquyeu. Ông cho rằng “không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp”, độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Quyền tư pháp thực hiện sự phán quyết về những vấn đê’ mang tính tư pháp, thông thường và chủ yếu là do Tòa án thực hiện. Độc lập xét xử bao gổm các thành tố cơ bản sau: độc lập của quyền tư pháp, độc lập của thiết chế thực hiện quyền tư pháp, độc lập của những người thực hiện quyền lực tư pháp. Hay nói cách khác, độc lập của quyền tư pháp với các quyền lực nhà nước khác, độc lập của cơ quan Tòa án với các cơ quan quyền lực khác cũng như giữa các cơ quan Tòa án với nhau, độc lập của Thẩm phán. Tòa án được thiết lập để thực hiện quyền tư pháp, nên Tòa án phải độc lập với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, không bị giám sát, kiểm soát, lệ thuộc về mặt nhận định, tổ chức, nhân sự, kinh phí…

2. Nội dung của nguyên tắc
– Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Quy định này bảo đảm tính khách quan, công bằng của các quyết định do Tòa án đưa ra, đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, bảo đảm chất lượng của hoạt động xét xử. Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm thể hiện trong mối quan hệ của họ và Tòa án với các cơ quan, với những người khác, trong quan hệ với các cấp xét xử. Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Vì thế, quyết định của Tòa án phải khách quan, chính xác và độc lập xét xử phải là một nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Khi xét xử các vụ án hình sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết của vụ án, căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa công khai và căn cứ vào pháp luật để xác định tội phạm cũng như hình phạt đối với người phạm tội. Các thành viên của Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) không để cho bất cứ ai vì bất cứ lý do gì chi phối mà xử lý không đúng pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không được dựa vào quyết định, kết luận của Cơ quan điểu tra, Viện kiểm sát, mà phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa và quá trình xét xử tại phiên tòa để có kết luận riêng của mình đối với từng vấn đề. Thực tiễn cho thấy, Tòa án chỉ có thể quyết định, xử lý vụ án chính xác khi đã mở phiên tòa. Mối quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan khác của Nhà nước được xác định như sau: ,
Các cơ quan quản lý không được can thiệp vào việc xét xử của Tòa án, vì công tác xét xử đã được Nhà nước giao cho Tòa án. Tòa án không lệ thuộc vào ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Nếu qua phiên tòa, Tòa án thấy cần thiết xử lý khác với các ý kiến của các cơ quan trên thì phải căn cứ vào pháp luật mà xử lý chính xác.
Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử cụ thể một vụ án buộc Tòa án cấp dưới phải theo.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ độc lập với các cơ quan nhà nước nói trên mà còn độc lập với yêu cầu của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, độc lập với người bào chữa, độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử với nhau… Cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm độc lập trong suy nghĩ, xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Độc lập xét xử cũng không có nghĩa là không có sự kiểm sát và giám sát. Tòa án cấp trên có quyền thẩm tra những bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới và hủy bỏ chúng trong trường hợp trái pháp luật hoặc không có cơ sở đúng đắn. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tuỳ tiện mà phải tuân theo pháp luật. Hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm và luật pháp có mối liên hệ luôn luôn thống nhất với nhau và không thể tách rời nhau.
Như vậy, “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện, độc đoán.
– Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Nguyên tắc này không chỉ xác định độc lập xét xử là một nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm mà còn quy định rất rõ nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuyệt đối tôn trọng hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, không được can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào. Đồng thời, nguyên tắc này cũng xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Đây là nội dung mới được đưa vào nguyên tắc, thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta trong việc nâng cao tính độc lập của Tòa án.
Nguyên tắc này bảo đảm cho Tòa án thực hiện tốt các chức năng xét xử của mình theo quy định của pháp luật, đồng thời đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm. Muốn cho nguyên tắc này được thực hiện tốt thì Nhà nước phải có pháp luật hoàn chỉnh, vì nó là điều kiện để bảo đảm cho Tòa án có “chỗ dựa” vững chắc trong công tác xét xử. Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm phải là những người có trình độ chuyên môn, chính trị và tinh thần đấu tranh bảo vệ pháp luật.