1. Cơ sở pháp lý
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, đổng thời kế thừa và phát huy mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được quy định tại khoản 4 Điều 107, không được khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Quy định này phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”.

2. Nội dung của nguyên tắc
Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là một trong những nguyên tắc mới được quy định tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với nội dung: Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm. .
Theo quy định trên, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, Viện kiểm sát không được truy tố, Tòa án không được xét xử và tuyên bố một người phạm tội khi hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện đã được giải quyết và xử lý bằng một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cơ quan có thẩm quyền phải kịp thời ra quyết định đình chỉ điều tra hay đình chỉ vụ án tùy theo từng giai đoạn tố tụng.
Việc xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không có nghĩa là xét xử lần thứ hai đối với hành vi phạm tội mà họ đã được xét xử, không vi phạm nguyên tắc này. Việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục có tính chất tương đối đặc biệt để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đưa ra phương án khắc phục những sai lầm này, không phải xét xử lần nữa với người đã bị kết án.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lẩn vì một tội phạm góp phần quan trọng trong việc bảo đảm trình tự tố tụng; bảo đảm tính ổn định và giá trị pháp lý của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.