1. Cơ sở pháp lý
Kế thừa quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, trên cơ sở quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Nguyên tắc này cũ nguyên tắc hoạt động cơ bản của Tòa án tại hầu hết các nước trê ế giới, pháp luật các nước đều quy định đương sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đểu có quyển yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật”(khoản 5 Điều 14).
2. Nội dung của nguyên tắc
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất.
Khi xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật vê’ thẩm quyền theo sự việc, thẩm quyền theo đối tượng và thẩm quyền theo lãnh thổ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử vụ án một lần nữa.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Khi xét xử lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà còn xét xử lại vụ án về nội dung. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án và được đưa ra thi hành.
Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử, không xét xử lại vụ án vê’ nội dung mà chỉ xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết định đó. Khi giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án không thực hiện chức năng xét xử mà thực hiện việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới.
Nguyên tắc này tạo điều kiện để Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có điều kiện thể hiện thái độ không nhất trí của mình đối với việc xét xử của Tòa án. Việc vụ án được xét xử qua hai cấp bảo đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác và đúng đắn hơn, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án và qua đó lợi ích của Nhà nước, của các chủ thể tham gia tố tụng được bảo đảm. Đồng thời, việc quy định chỉ có hai cấp xét xử cũng tránh tình trạng vụ án được xét xử bởi quá nhiều cấp, kéo dài quá trình tố tụng và bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần phải có các quy định pháp
luật cụ thể, đồng bộ và thống nhất điều chỉnh các hoạt động xét xử sơ thẩm, phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án theo đúng tinh thần của nguyên tắc, đồng thời cũng cần tổ chức hệ thống Tòa án phù hợp với việc phân cấp xét xử…