1. Nguồn của luật dân sự là gì?
Nguồn của pháp luật đã được nghiên cứu trong lý luận chung về nhà nước và pháp luật, về mặt xã hội học, nguồn của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đưa lên thành luật mà nội dung được xác định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế tồn tại trong xã hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đưa thành luật, thể hiện quan điểm giai cấp về hình mẫu xã hội, trong đó các quan hệ xã hội nào được điều chỉnh bằng pháp luật và với phương thức nào là do giai cấp thống trị quy định thông qua hoạt động lập pháp của nhà nước.
Để xem xét các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự thì cần nghiên cứu về nguồn luật dân sự. Nguồn của luật Dân sự được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau gôm:
Thứ nhất, theo nguồn gốc phát sinh quy phạm pháp luật thì nguồn của luật Dân sự là những quan hệ xã hội cần thiết phải được pháp luật dân sự điều chỉnh;
Thứ hai, dưới góc độ xã hội học thì nguồn của luật Dân sự là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật mà nội dung được quyết định bởi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội và phong tục, tập quán;
Thứ ba, theo hình thức biểu hiện ra bên ngoài thì nguồn của luật Dân sự là những văn bản quy phạm pháp luật dân sự.
Mỗi ngành luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định cách thức xử sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay – Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4 Hiến pháp năm 1992), là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự thể chế hoá đường lối của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đường lối, chủ trương của Đảng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế hoá bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, “Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật”.
Nguồn của luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật (hình thức của pháp luật) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. Một văn bản được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
– Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
– Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự;
– Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định.
Nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật” và “nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”.
Quan niệm về nguồn của luật dân sự có sự thay đổi theo thời gian, dựa trên quy định của luật tương ứng với thời kỳ đó. Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên chính thức ghi nhận việc áp dụng án lệ, trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh. Do đó, luật Dân sự bao gồm một hệ thống các văn bản pháp luật (luật thành văn) cùng với tập quán, án lệ trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung theo một chuẩn mực pháp lý nhất định. Vì thế, nguồn của luật dân sự là quy tắc ứng xử được ghi nhận trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành, những tập quán, khuôn mẫu được xác định từ án lệ mà theo đó, các chủ thể phải tuân theo khi tham gia và thực hiện các quan hệ dân sự.
Trong số các loại nguồn của luật dân sự thì hệ thống các văn bản pháp luật được xác định là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất bởi hệ thống pháp luật nước ta theo truyền thống pháp luật Civil law – luật thành văn. Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của luật dân sự do do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định có chứa các quy phạm pháp luật dân sự, nhằm điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Một văn bản quy phạm pháp luật được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Một là, phải là văn bản quy phạm pháp luật dân sự, tức là chứa đựng các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự;
Hai là, văn bản quy phạm pháp luật dân sự phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành; Ba là, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định.
2. Phân loại nguồn của luật dân sự hiện nay
Nguồn của luật dân sự rất đa dạng, phong phú. Trong đó, nguồn chiếm ưu thế và quan trọng nhất của luật Dân sự là luật thành văn. Ngoài ra, tập quán, án lệ cũng được thừa nhận chính thức là nguồn của luật Dân sự.
2.1. Hiến pháp là nguồn của pháp luật dân sự
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một quốc gia, là “xương sống, trụ cột” của hệ thống pháp luật, là cơ sở xây dựng các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của hệ thống pháp luật, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, các ngành luật cụ thể hoá bằng các quy định để tác động tới các quan hệ mà nó có nhiệm vụ điều chỉnh.
Đối với luật dân sự, Hiến pháp là nguồn đặc biệt quan trọng, mặc dù Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề chung nhất của luật dân sự. Hiển pháp năm 1992 quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội Việt Nam ở giai đoạn đầu thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Hiến pháp năm 2013, Chương II và Chương III có những quy định liên quan nhiều nhất đến luật dân sự:
Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Ngoài những quyền về chính trị – xã hội, Hiến pháp còn xác nhận những quyền dân sự cơ bản của công dân, đó là quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở; quyền thừa kế, quyền bình đẳng về năng lực pháp luật của cá nhân; các quyền nhân thân và quyền tài sản khác…
Chương III – Kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường
Điều 51 quy định:
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hoá
2.2. Bộ luật dân sự là nguồn của pháp luật dân sự
Bộ luật Dân sự là nguồn chủ yếu, trực tiếp và quan trọng nhất của luật dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm 6 phần, 27 chương và 689 điều với nhiều chế định mới, tiến bộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất với tính chất là luật chung và định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, xử lílí bất cập của luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn cuộc sống.
Đây là bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta về mọi phương diện: phạm vi điều chỉnh, thời gian chuẩn bị thông qua, số lượng điều luật… Bộ luật Dân sự đã thể chế hóa Cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các nghị quyết của Đảng và cụ thể hoá Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, góp phần giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư sống và làm việc theo pháp luật, vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc ta. Bộ luật Dân sự góp phần hạn chế tranh chấp tiêu cực trong các quan hệ dân sự, bảo đảm dân chủ, công bằng, ổn định, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, mỗi người vì cộng đồng và cộng đồng vì mỗi người. Đồng thời, việc ban hành Bộ luật Dân sự là thực hiện một bước quan trọng pháp điển hóa pháp luật dân sự, khắc phục tình trạng tản mạn, không đầy đủ của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, nhằm phát huy vai trò tác dụng của pháp luật dân sự trong việc đẩy mạnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng thi hành pháp luật. Bộ luật Dân sự cũng là sự kế thừa, phát triển của pháp luật dân sự của ông cha ta và những tinh hoa của pháp luật dân sự trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ thể của chúng ta hiện nay.
Nội dung chủ yếu của Bộ luật Dân sự năm 2015:
Phần thứ nhất: Những quy định chung.
Phần này được kết cấu bởi 10 chương với 157 điều. Nội dung chủ yếu của phần này là xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2015, địa vị pháp của cá nhân, pháp nhân. Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, giải quyết các tranh chấp và áp dụng luật dân sự; quy định các căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của các quy định cụ thể trong toàn Bộ luật. Ngoài ra, còn quy định các quyền nhân thân của cá nhân như họ tên.., nơi cư trú, tuyên bố chết, quy định về tài sản, quy định về giao dịch dân sự, về đại diện, thời hạn, thời hiệu.
Những quy định trong phần này mang tính chất chung, xuyên suốt toàn bộ nội dung của Bộ luật Dân sự và được cụ thể hoá trong tất cả các phần của Bộ luật Dân sự nhằm bảo đảm tính thống nhất về nội dung, tránh tình dạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai: Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản.
Phần này gồm 4 chương, 115 điều (từ Điều 158 đến Điều 273), quy định những nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chiếm hữu, các hình thức sở hữu, nội dung quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản; đặc biệt Chương XIV với tiêu đề “Quyền khác đối với tài sản” quy định về quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt.
Xuất phát từ vai trò chi phối của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật, Bộ luật Dân sự khẳng định vị trí trung tâm của chế định quyền sở hữu trong các chế định luật dân sự. Trong mọi xã hội, phương thức chiếm hữu của cải vật chất và chế độ sở hữu có ý nghĩa quyết định. Bộ luật Dân sự cụ thể hoá quy định về chế độ sở hữu mà Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, tạo cơ sở pháp lí cho các quy định cụ thể ở các phần tiếp theo của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Những quy định ở phần này thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, khuyến khích phát triển tài sản, mở rộng đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.
Phần này gồm 5 chương, 334 điều (từ Điều 274 đến Điều 608). Đây là phần có số điều luật lớn nhất của Bộ luật Dân sự, quy định những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự; nguyên tắc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự đối với từng loại nghĩa vụ riêng biệt. Với tư cách là căn cứ chủ yếu, thông dụng và hợp pháp làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự được quy định tương xứng phù hợp với quy mô của nó, bao gồm những quy định chung về hợp đồng và một số hợp đồng dân sự thông dụng trong đời sống dân sự thường ngày.
Nghĩa vụ dân sự là loại quan hệ dân sự mang tính chất “động”, liên quan đến việc dịch chuyển tài sản, dịch vụ từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối tượng của nghĩa vụ có thể là tài sản, một việc phải làm hoặc không được làm. Tài sản và công việc được làm, không được làm là những đối tượng của nghĩa vụ dân sự rất đa dạng, phức tạp, cho nên các quy định trong phần này của Bộ luật Dân sự chủ yếu là những quy định khung có tính chất định tính mà không thiên về định lượng. Bởi vậy, các nguyên tắc cơ bản được quy định là những định hướng cho việc xác lập, thực hiện nghĩa vụ và xuyên suốt phần này của Bộ luật Dân sự. Những nguyên tắc cơ bản đó là:
+ Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội, trên cơ sở bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật;
+ Người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật và đạo đức xã hội;
+ Người nào hưởng lợi mà không có căn cứ thì phải hoàn trả lại;
+ Người nào vi phạm quyền dân sự của người khác thì phải chịu trách nhiệm dân sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
Những nguyên tắc cơ bản và các quy định trong phần này nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh giao lưu dân sự trong nước cũng như với ngoài nước đồng thời giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Phần thứ tư: Thừa kế.
Phần này gồm 4 chương, 53 điều (từ Điều 609 đến Điều 662) quy định việc dịch chuyển di sản của người chết cho những người còn sống; về người để lại di sản, người hưởng di sản; những nguyên tắc của việc dịch chuyển di sản và các trình tự dịch chuyển di sản; thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Bộ luật Dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản của thừa kế là bình đẳng, quyền tự định đoạt của người có di sản để lại và của người hưởng di sản. Nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của người có di sản, Bộ luật quy định về việc thừa kế theo di chúc và các hình thức của di chúc, quyền của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ thông qua di chúc. Người thừa kế có quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế, nếu nhận di sản họ phải thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại trong phạm vi di sản đã nhận. Phần này cũng xác định những trường hợp thừa kế theo luật, những người thừa kế và các hàng thừa kế; thừa kế thế vị và thừa kế của những người liên quan. Ngoài ra, còn quy định về trình tự thanh toán di sản và cách thức phân chia di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Phàn này gồm 3 chương, 24 điều (từ Điều 663 đến Điều 687) quy định về thẩm quyền và pháp luật được áp dụng khi giải quyết các tranh chấp dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài.
2.3. Các văn bản Luật là nguồn của pháp luật dân sự
Khi Bộ luật Dân sự được ban hành với tư cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các đạo luật khác có giá trị như là nguồn bổ trợ.
Bởi vì, Bộ luật Dân sự có quy định: Nếu pháp luật có quy định hoặc trong Bộ luật Dân sự chỉ dẫn rõ một đạo luật nào đó được áp dụng thì áp dụng quy định đó. Với ý nghĩa đó, các luật như Luật hôn nhân và gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật trẻ em, Luật về bảo vệ và phát triển rừng… là nguồn của luật dân sự.
2.4. Nghị quyết của Quốc hội là nguồn của pháp luật dân sự
Đây là văn bản do Quốc hội ban hành, có hiệu lực như văn bản pháp luật. Kể từ khi ban hành Bộ luật Dân sự, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với luật dân sự, đó là: Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc thi hành Bộ luật Dân sự. Nghị quyết đã liệt kê những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi Bộ luật Dân sự bắt đầu có hiệu lực và quy định phạm vi áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực; Nghị quyết số 58 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự về nhà ở giai đoạn trước ngày 01/7/1991, nội dung có tính đến mọi mặt xã hội đối với vấn đề nhà ở.
2.5. Các văn bản dưới luật là nguồn của pháp luật dân sự
– Pháp lệnh: Là văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trước đây, khi chưa ban hành Bộ luật Dân sự thì pháp lệnh là loại nguồn quan trọng phổ biến của luật dân sự. Nhưng đến nay, các pháp lệnh đó không còn hiệu lực. Các pháp lệnh sau này có thể được ban hành để giải thích, hướng dẫn cụ thể những quy định của Bộ luật Dân sự hoặc pháp lệnh sẽ quy định những lĩnh vực mà chưa đủ chín muồi để ban hành luật.
– Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư, chỉ thị của các bộ, các cơ quan ngang bộ.
Các loại văn bản này có ý nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ thể; có nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật Dân sự. Những quy định của các bộ, cơ quan ngang bộ được áp dụng giải quyết cho các quan hệ tương ứng.
– Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao.
Xét về chức năng, tòa án các cấp là cơ quan xét xử (Điều Luật tổ chức toà án), không phải là cơ quan ban hành các văn bản pháp luật. Nhưng trong một thời gian dài, hệ thống các văn bản pháp luật dân sự thiếu và không đồng bộ, trong khi việc giải quyết các tranh chấp dân sự là cần thiết và không thể trì hoãn được, để giúp các toà án cấp dưới giải quyết tranh chấp, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các thông tư hướng dẫn giải quyết các tranh chấp trong những lĩnh vực nhất định như: Thông tư số 173 (1972) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Thông tư số 81 (1981) giải quyết các tranh chấp về thừa kế… Khi chưa có các văn bản pháp luật điều tiết, áp dụng các thông tư này để giải quyết các tranh chấp là xác đáng. Hệ thống pháp luật dân sự ngày càng hoàn thiện nhưng việc áp dụng các văn bản pháp luật của các cơ quan xét xử khác nhau nhiều khi không thống nhất. Nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử, ban hành các nghị quyết hướng dẫn giải quyết các vụ, việc hình sự, kinh tế.., trong đó có nghị quyết về các vấn đề dân sự. Ngoài ra, hàng năm Tòa án nhân dân tối cao tổng kết rút kinh nghiệm và thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử. Những loại văn bản này không là nguồn của luật dân sự nhưng nó kịp thời khắc phục những lỗ hổng trong luật dân sự, hướng dẫn giải quyết những vụ việc cụ thể.
2.6. Án lệ là nguồn của pháp luật dân sự
Khoản 2 Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: ‘Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”. Như vậy, án lệ đã được chính thức thừa nhận là một nguồn bổ trợ cho sự giải thích và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của toà án. Bản chất và chức năng của án lệ với tư cách là nguồn luật mà toà án sử dụng có sự khác nhau trong mỗi hệ thống pháp luật. Trong hệ thống thông luật (common law), án lệ được quan niệm là một nguồn luật có giá trị bắt buộc và án lệ có thể được coi là căn cứ pháp lý cho tòa án ra các quyết định trong xét xử. Trong hệ thống luật thành văn (civil law) thì án lệ chủ yếu đóng vai trò là nguồn luật thứ yểu bổ trợ cho nguồn luật thành văn mà toà án sử dụng trong xét xử. Ngày nay, hệ thống pháp luật của các nước đang phát triển theo xu hướng tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau và đều thừa nhận án lệ với những chức năng hữu ích của nó. Án lệ có thể khắc phục được những hạn chế về tính chi tiết hoá và sự dự liệu những tình huống đa dạng trong thực tiễn trong hầu hết hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, ngay cả khi hệ thống được được đánh giá là hiện đại và tiên tiến. Với việc ghi nhận án lệ là nguồn bổ trợ cho hoạt động xét xử của tòa án sẽ khiến cho các văn bản pháp luật không phải sửa đổi liên tục, ngay cả khi chúng không có quy định điều chỉnh các tranh chấp hay các quy định vốn có không rõ ràng và không thống nhất với nhau.