Trong tố tụng hình sự, việc điều tra, truy tố, xét xử và giải quyết vụ án luôn gắn liền với vấn đề bảo đảm quyền con người. Để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người, cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành phải dựa trên những căn cứ và theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm không để lọt tội phạm song cũng không làm oan người vô tội.
Qua tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bất cập trong quy định của pháp luật; cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013 trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; phù hợp và bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bổ sung một cách khá hợp lý về địa vị pháp lý của người bị buộc tội. Theo đó, người bị buộc tội bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo. Ngoài ra, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng là người bị buộc tội.
Đây là những người tham gia tố tụng dễ bị tổn thương, quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm hại. Để có cơ sở pháp lý và tạo điều kiện cho người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bổ sung không chỉ diện người bị buộc tội là người bị bắt tại Điều 58 mà còn quy định bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng tại Điều 59, Điều 60 và Điều 61 nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở cho việc bào chữa, cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội.
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt bao gồm: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã.
– Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người đã có lệnh giữ của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt;
– Người bị bắt theo quyết định truy nã là người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu bị bắt khi cơ quan có thẩm quyền quyết định truy tìm tung tích theo quy định của pháp luật.
Theo Hiến pháp thì, không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Để khắc phục quy định tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, đồng thời phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 cũng như tạo điều kiện để người bị bắt có cơ sở bảo vệ mình, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một điều luật mới nhằm xác định tư cách tham gia tố tụng của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã) là người bị nghi phạm tội, vì vậy lời khai ban đầu của họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định lý do họ bị giữ, bị bắt và góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rõ địa vị pháp lý của họ với tư cách là người tham gia tố tụng góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự và hạn chế oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án.
Xem thêm: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
2. Người bị tạm giữ
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt là người bị nghi phạm tội, vì vậy lời khai ban đầu của họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định lý do họ bị giữ, bị bắt và góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rõ địa vị pháp lý của họ với tư cách là người tham gia tố tụng góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự và hạn chế oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án.
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự như người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người phạm tội tự thú.
Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự như bị can, bị cáo, người bị kết án chưa chấp hành án, người đang chấp hành án, nếu bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ.
Xem thêm: Người bị tạm giữ là ai? Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ
3. Bị can
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự.
Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Điều đó có nghĩa là, tư cách bị can xuất hiện từ khi có quyết định khởi tố bị can chứ không phải từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho đến trước thời điểm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tư cách tố tụng của bị can chấm dứt khi Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Bị can là người bị buộc tội trong vụ án hình sự bởi quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên, khái niệm bị can không đồng nghĩa với khái niệm người có tội. Điều này thể hiện rõ hơn trong quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo đó, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Xem thêm: Bị can là gì? Quyền và nghĩa vụ của bị can theo quy định
4. Bị cáo
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng, quyết định truy tố (trong trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn) do Viện kiểm sát chuyển đến, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn theo quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Nếu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì xuất hiện tư cách bị cáo. Như vậy, bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Cũng như khái niệm bị can, khái niệm bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng được áp dụng đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trên thực tế, bị cáo cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
Xem thêm: Bị cáo là gì? Quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo quy định