Việc thực hiện hành vi phạm tội, dù đạt hay không đạt mục đích đã định, luôn tác động trực tiếp đến người phạm tội, gây ra những thay đổi nhất định trong tâm lý, nhân cách của họ. Những thay đổi này rất đa dạng về nội dung, mức độ và hình thức biểu hiện. Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội được biểu hiện rõ ở trạng thái tâm lý và hành vi xử sự.
1. Trạng thái tâm lý
Sau khi thực hiện tội phạm, trạng thái tâm lý của người phạm tội thường có xu hướng trở nên căng thẳng và phức tạp. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể kể đến một số nguyên nhân thường gặp như sau:
– Sự xuất hiện của những xúc cảm căng thẳng, những ấn tượng, ám ảnh ở người phạm tội.
Trong quá trình thực hiện tội phạm, cá nhân không chỉ hành động mà còn tri giác diễn biến và hậu quả của nó. Trong nhiều trường hợp, những hình ảnh về diễn biến và hậu quả của hành vi thường xuyên xuất hiện lại trong đầu óc người phạm tội, ám ảnh họ và gây ra những cảm xúc nặng nề, như: ghê rợn, sợ hãi, những căng thẳng không thể chịu đựng…
– Người phạm tội nhận thức được ý nghĩa và hậu quả của hành vi phạm tội, họ có thể có những ăn năn, hối hận.
Thông thường chỉ sau khi thực hiện hành vi, con người mới thấy hết được ý nghĩa và hậu quả về việc làm của mình đối với xã hội và đối với bản thân.
Điều này làm cho người phạm tội cảm thấy lỗi lầm, hối hận, lương tâm dằn vặt, tự trách bản thân…
– Người phạm tội lo lắng cho sự an toàn của bản thân, lo sợ bị phát hiện và trừng trị.
Việc thực hiện hành vi phạm tội đưa người phạm tội đến chỗ đối đầu với xã hội, với pháp luật và họ bị đe dọa phải chịu một hình phạt nghiêm khắc.
Ý thức được điều này, người phạm tội luôn lo sợ bị phát hiện và bị trừng trị, lo sợ đánh mất địa vị và tiền đồ của mình…
– Sự hoạt động tích cực của tư duy để tìm cách đối phó với cơ quan điều ưa, hòng che dấu hành vi phạm tội.
Khi thấy hành vi của mình vẫn chưa bị lôi ra ánh sáng, người phạm tội hy vọng rằng, họ có thể lẩn tránh được sự phát hiện và trừng trị của pháp luật.
Họ tìm mọi cách để đối phó với các- cơ quan bảo vệ pháp luật và che dấu tội lỗi của mình. Họ cô’ nhớ lại quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm để phát hiện, phân tích, đánh giá những sơ suất của bản thân trong quá trình đó; tìm cách lý giải các tình huống nếu bị hỏi tới; phán đoán, nhận định về hoạt động của cơ quan điều tra… điều này làm cho tư duy của người phạm tội trở nên căng thẳng.

2. Hành vi
Xuất phát từ sự căng thẳng tâm lý, hành vi của người phạm tội thường có những biểu hiện sau:
– Hành vi của người phạm tội trở nên thụ động, họ dễ bị kích động, không làm chủ được bản thân.
Sự căng thẳng tâm lý, diễn biến phức tạp của các quá trình cảm xúc và trí tuệ làm giảm khả năng định hướng, điều khiển và kiểm soát hành vi, thái độ của người phạm tội. Dù người phạm tội tìm cách che giấu nội tâm của mình, cố tỏ ra bình thường, nhưng trong hành vi, cử chỉ của họ vẫn có thể dễ dàng phát hiện những biểu hiện thiếu tự nhiên, lúng túng. Tâm lý căng thẳng, mất cân bằng làm tăng tính phản ứng, người phạm tội trở nên dễ bị kích động, dễ phản ứng và phản ứng không tương xứng với tình huống. Phong cách giao tiếp của người phạm tội cũng thay đổi. Nếu trước đây họ là người thích giao tiếp, cởi mở, dễ gần, thì nay ngược lại, họ thận trọng, đề phòng, khép kín, ít nói và hạn chế giao tiếp đến mức tối thiểu. Cũng có trường hợp người phạm tội tỏ ra hăng hái, tích cực tham gia vào nhiều công việc khác nhau ở cơ quan, tập thể nơi họ công tác, song tính tích cực này thường thái quá, chỉ mang tính hình thức, không thật và dễ bị ngắt quãng.
– Do luôn bị ám ảnh bởi trạng thái tâm lý căng thẳng và bất lực trong việc loại bỏ nó, người phạm tội có thể tìm đến những hình thức như sử dụng các chất kích thích (rượu, ma tuý…) hoặc tìm các cảm giác mạnh ở các trò tiêu khiển.
– Người phạm tội có xu thế muốn tìm hiểu, thăm dò các thông tin về quá trình điều tra.
Sau khi thực hiện tội phạm, do lo sợ bị phát hiện và bị trừng trị, do muốn xác định những biện pháp đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, người phạm tội đặc biệt quan tâm đến những thông tin về quá trình điều tra vụ án.
Tuy nhiên, những thông tin này được cơ quan điều tra giữ bí mật và người phạm tội không có đầy đủ các thông tin cần thiết, không xác định được một cách rõ ràng tình thế của mình. Điều này gây nhiều khó khăn cho họ trong việc quyết định những hành động tiếp theo, những biện pháp đối phó. Vì vậy, sau khi phạm tội, một số người lập tức rời bỏ địa bàn (cư trú, gây án) tìm nơi kín đáo và an toàn để lẩn trốn, đồng thời nghe ngóng động tĩnh.
Trong giao tiếp, người phạm tội có thể tìm cách đề cập đến vụ án nhằm thu thập thông tin từ người đối thoại. Cũng có trường hợp người phạm tội mạo hiểm trở lại hiện trường gây án nhằm nhớ lại một cách đầy đủ diễn biến của vụ án, xác định những dấu vết để lại trên hiện trường, từ đó phán đoán về hoạt động của cơ quan điều tra.
– Người phạm tội có sự mâu thuẫn trong xu hướng hành vi.
Những hậu quả tâm lý đã phân tích trên đây làm hình thành ở người phạm tội các xu hướng hành vi trái ngược nhau. Một mặt, họ muốn ra đầu thú vì họ biết rằng, hành vi của mình không sớm thì muộn sẽ bị phát hiện và trừng trị. Mặt khác, họ lại muốn lẩn tránh vì họ vẫn có hy vọng mong manh rằng, hành vi của mình sẽ không bị phát giác. Các xu thế mâu thuẫn này làm hình thành ở người phạm tội sự “giao động tâm lý” sau khi họ thực hiện tội phạm.
Như vậy, sau khi phạm tội, trong tâm lý người phạm tội diễn ra những thay đổi trên nhiều mặt: nhân thức, xúc cảm, ý chí, hành vi… Mức độ biểu hiện của những thay đổi này trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc điểm và tính chất của hành vi phạm tội, tiền án tiền sự, các đặc điểm tâm lý… của người phạm tội.
Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị phát hiện hoặc người phạm tội không bị trừng trị một cách nghiêm khắc, thì tâm thế chống đối xã hội, những thói quen và phương thức hành động tội lỗi có thể được củng cố. Người phạm tội trở thành chai dạn, kinh nghiệm và nguy hiểm hơn đối với xã hội.