Khả năng cạnh tranh thường dựa trên kỹ thuật sáng tạo cùng với các bí quyết trong quá trình sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại. Tuy nhiên, những kỹ thuật và bí quyết sản xuất này không phải luôn luôn được luật sáng chế bảo hộ.
Trước hết, bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp cho các sáng chế trong lĩnh vực công nghệ chứ không cấp cho những thành tựu mới liên quan tới việc quản lý kinh doanh. Hơn nữa, một số giải pháp hay thông tin kỹ thuật, trong khi tạo ra một lợi thế thương mại có giá trị cho một doanh nhân nào đó lại có thể thiếu tính mới hoặc tính sáng tạo theo yêu cầu để có thể được cấp bằng sáng chế. Hơn nữa, trong thời gian nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế, chừng nào mà thông tin chưa được tiết lộ cho công chúng, chủ sở hữu của thông tin được cấp bằng độc quyền sáng chế phải được bảo hộ chống lại bất kỳ việc người nào khác tiết lộ thông tin sai trái, bất kể cuối cùng người nộp đơn yêu cầu có được cấp bằng độc quyền sáng chế hay không.
Tại Điều 10 bis Công ước Paris không đề cập tới bí mật kinh doanh, nhưng quy định về cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi việc bảo hộ chống lại bất kỳ hành động cạnh tranh đối nghịch với thông lệ trung thực trong các vấn đề thương mại hay công nghiệp; nhu cầu bảo hộ chống lại việc bảo hộ sai trái “thông tin không được tiết lộ” nhìn chung đã được công nhận
Bí mật kinh doanh được pháp luật Việt Nam định nghĩa: là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Bí mật kinh doanh cũng là đối tượng được Hiệp định TRIPS bảo hộ tại Điều 39 và đương nhiên đây cũng là một trong số các yêu cầu đối với các nước thành viên. Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) quy định bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Những thông tin bí mật cần được bảo hộ theo quy định tại Điều 39 Hiệp định TRIPS và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam phải là những thông tin:
Một là, có tính chất bí mật với nghĩa là những người thường xuyên xử lý loại thông tin đó nói chung không biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó;
Hai là, những thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ có tính bí mật chưa được bộc lộ ra bên ngoài;
Ba là, thông tin có khả năng được sử dụng trong kinh doanh và người có quyền kiểm soát hợp pháp thông tin đó đã thực hiện các biện pháp phù hợp với hoàn cảnh để giữ bí mật thông tin đó.
Theo Điều 85 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì các thông tin thuộc bí mật về nhân thân; bí mật về quản lý nhà nước; bí mật về quốc phòng, an ninh; thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh sẽ không được bảo hộ dưới danh nghĩa là bí mật kinh doanh. Cũng theo tinh thần Điều 787 Bộ luật Dân sự thì các bí mật kinh doanh nếu trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo cũng không được Nhà nước bảo hộ.