1. Căn cứ pháp lý
Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân được quy định tại Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 160. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân
1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dẫn đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân
2.1. Khách thể của tội phạm
Hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân là bằng những hình thức khác nhau làm cho quyền bầu cử, ứng cử của người dân không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng với ý chí của họ.
Tội phạm xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử được quy định tại Điều 27 Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành v i lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, cụ thể:
– Lừa gạt là hành vi dùng thủ đoạn gian dối khiến người khác hiểu lầm về tiêu chuẩn, uy tín, năng lực của các đại biểu nên bầu không đúng với những người mà ban đầu họ nhận thức; giải thích xuyên tạc cách thức ghi trong phiếu khiến cử tri bầu không đúng người mà họ tín nhiệm hay làm cho phiếu của họ không hợp lệ; lợi dụng người khác nhờ bỏ phiếu (người này bị tật nguyền, bị mù, không biết chữ…) mà ghi sai ý kiến của họ.
– Mua chuộc tức là đưa tiền, vật chất hoặc lợi ích khác lôi kéo cử tri làm cho người đi bầu cử bỏ phiếu cho người theo yêu cầu của người phạm tội. Hoặc dùng lợi ích vật chất để yêu cầu, mua chuộc một người rút khỏi danh sách bầu cử để đưa người khác vào danh sách bầu cử…
– Dùng các thủ đoạn khác là dùng các thủ đoạn nhằm cản trở người khác không cho họ ra ứng cử trái với mong muốn của họ; dọa nạt có tính chất đe dọa, khống chế, uy hiếp tinh thần để người khác bỏ phiếu theo ý đồ của họ hoặc không đi bỏ phiếu hoặc không ứng cử, buộc họ phải rút khỏi danh sách bầu cử như: đe dọa sẽ đuổi việc, không cho lên lương, sẽ bị đánh nếu không nghe theo ý kiến của người phạm tội; hoặc sửa chữa lý lịch của người này, thêm thành tích vào cho người khác để cử tri hiểu sai về phẩm chất và năng lực của họ. Ví dụ, A có trình độ sơ cấp nhưng sửa lại là đại học…
2.3. Chủ thể của tội phạm
Người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. thông thường vì mục đích cá nhân.
3. Hình phạt
– Khung 1: phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
– Khung 2: phạt tù từ một năm đến hai năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có tổ chức là từ 2 người trở lên khi thực hiện tội phạm có sự phân công vai trò trách nhiệm của từng người;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: như phân tích tại các điểm trên;
+ Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp làm cho kết quả bầu cử không chọn được những người có đủ phẩm chất và năng lực; quần chúng nhân dân không tin tưởng vào kết quả bầu cử cũng như sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước…
– Hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.