1. Cơ sở pháp lý
Trong quá trình tiến hành tố tụng, để bảo đảm phát hiện nhanh chóng và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự.
2. Nội dung của nguyên tắc
– Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của minh có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội.
– Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đối với các cơ quan, tổ chức khác không có quyền khởi tố vụ án hình sự nhưng trong phạm vi trách nhiệm của mình phải phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, như phải báo tin ngay về tội phạm xảy ra trong cơ quan, tổ chức mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định một số cơ quan khác cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Đó là các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan nói trên không giống nhau và được quy định cụ thể tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Việc khởi tố vụ án hình sự chỉ được tiến hành khi xác định hành vi có dấu hiệu của tội phạm và theo trình tự mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp điều tra cần thiết theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.