Cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội bao gồm: nhu cầu; động cơ phạm tội; mục đích phạm tội; quyết định thực hiện hành vi phạm tội; điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.
1. Nhu cầu
Nhu cầu phản ánh sự phụ thuộc của con người vào môi trường bên ngoài. Nó được cảm nhận như trạng thái thiếu thốn về một cái gì đó và bạn phải tìm cách hành động để bù đắp. Chính vì vậy, nhu cầu là cội nguồn của tính tích cực của con người, là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành vi. Mọi hành động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu.
Mỗi con người luôn có nhiều nhu cầu. Chúng tạo thành hệ thống nhu cầu của người đó. Thông thường, người ta chia các nhu cầu của con người thành hai nhóm: Các nhu cầu sinh lý (hay còn gọi là nhu cầu tự nhiên) như ăn, ngủ, sinh dục, tự vệ… Các nhu cầu xã hội (nhu cầu tinh thần) như nhu cầu lao động, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu học tập, nhu cầu về sự công bằng…
Nhu cầu của con người xuất hiện, phát triển trong quá trình sống và hoạt động của họ, chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội và mức độ phát triển của xã hội. Do đó, hoạt động và lối sống của con người để lại dấu ấn trong hệ thống nhu cầu của họ. Nhu cầu của người phạm tội có nhiều điểm khác biệt so với nhu cầu của những người bình thường. Khi nghiên cứu hệ thống nhu cầu ở người chưa thành niên phạm tội, các nhà tâm lý học Nga G.G.Bôcarieva và L.I.Bôrovich đã phát hiện những nét đặc trưng sau:
– Tính nghèo nàn, hạn hẹp của hệ thống nhu cầu.
– Sự đòi hỏi quá cao của các nhu cầu thuộc cấp độ thấp (các nhu cầu sinh lý, các nhu cầu vật chất).
– Tính suy đồi và thiếu lành mạnh.
Cần phải thấy rằng, mặc dù nhu cầu là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành vi, kể cả hành vi phạm tội, song không tồn tại nhu cầu phạm tội.
Một người bị coi là phạm tội không phải vì người đó cần phải thoả mãn một nhu cầu nào đó của mình, mà là bởi vì họ đã lựa chọn phương thức thỏa mãn nó bằng việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, trong khi họ có đủ điều kiện (khách quan và chủ quan) để quyết định một hành vi khác phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Như vậy, sự lựa chọn phương thức hành động được quy định không phải bởi nhu cầu, mà bởi các đặc điểm nhân cách của con người.
2. Động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội (động cơ của hành vi phạm tội) là các yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Đó có thể là những xúc cảm, tình cảm, mong muốn, những hình ảnh tâm lý… Ví dụ: Tình cảm hằn thù cá nhân có thể đưa đến hành vi giết người, cố ý gây thương tích… Cơ sở của động cơ là hệ thống nhu cầu. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhu cầu nào cũng trở thành động cơ thúc đẩy việc thực hiện hành vi. Khi nhu cầu không được thỏa mãn và gặp sự tác động tương thích của điều kiện bên ngoài thì nó mới trở thành động cơ. Quá trình này tâm lý học gọi là “động cơ hoá Ví dụ, nhu cầu ”ăn” khi đang được thoả mãn thì bạn chưa để ý đến nó, nó chưa trở thành động cơ. Không được thỏa mãn nó sẽ thúc đẩy bạn hành động. Lúc này, nhu cầu mới trở thành động cơ của hành động.
Động cơ phạm tội là nguyên nhân bên trong trực tiếp đưa con người đến quyết định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Động cơ phạm tội biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của nhân cách người phạm tội. Trong những trường hợp phạm tội vói lỗi cố ý luôn tồn tại động cơ phạm tội, còn trong trường hợp phạm tội với lỗi vô ý thì chỉ tồn tại động cơ ứng xử, nó không đóng vai trò là động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Động cơ và hành vi do nó thúc đẩy có thể không cùng tính chất với nhau. Một động cơ tốt cũng có thể dẫn đến việc phạm tội. Ví dụ: Một phụ nữ do thương yêu, lo lắng cho con mình nên đã hãm hại con riêng của chồng để con mình được hưởng toàn bộ tài sản thừa kế. Chính vì vậy, trong Bộ luật Hình sự nước ta, động cơ phạm tội có thể là dấu hiệu định khung trong các cấu thành tội phạm, hoặc có thể được xem là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Ví dụ: Động cơ phòng vệ được xem là tình tiết giảm nhẹ (Điều 46, Khoản 1, Điểm c – Bộ luật Hình sự), động cơ đê hèn – là tình tiết tăng nặng (Điều 48, Khoản 1, Điểm đ).

3. Mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội (mục đích của hành vi phạm tội) là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi phạm tội. Nói cách khác, nó là kết quả được người phạm tội vẽ lên trong đầu óc mình trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trong hoạt động phạm tội không phải hành vi phạm tội nào cũng có mục đích phạm tội. Ở những trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp “người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra” (Điều 9, Khoản 1, Bộ luật Hình sự), nói cách khác, người phạm tội đã cân nhắc xác định rõ mục đích trước khi thực hiện hành vi đó, vì vậy luôn tồn tại mục đích phạm tội. Nó thể hiện khuynh hướng, ý chí của người phạm tội.
Mục đích được xác định trên cơ sở của động cơ. Do động cơ thúc đẩy mà con người đề ra cho mình những mục đích cụ thể. Chúng thực hiện chức năng nhận thức đối tượng và khách thể của hành vi, định hướng và điều khiển hành vi. Ngoài ra, mục đích sau khi được xác định rõ ràng cũng có tác dụng lôi cuốn con người vào hành động. Chính vì vậy, nhiều nhà luật học và tâm lý học (ví dụ: V.N.Cudriaxép, B.Chupharôpxki…) xếp mục đích vào lĩnh vực động lực của hành vi. Trong thực tế, giữa động cơ và mục đích phạm tội không phải bao giờ cũng dễ dàng phân biệt. Tuy nhiên, mục đích và động cơ là hai hiện tượng tâm lý khác nhau. Chức năng chủ yếu của động cơ là động lực thúc đẩy hành vi, còn của mục đích là định hướng và điều khiển hành vi, Cùng một loại động cơ thúc đẩy nhưng do đặc điểm tâm lý của mỗi người và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau nên họ có những mục đích và cách thức hành động khác nhau. Từ một động cơ, một con người có thể đặt ra nhiều mục đích và ngược lại, một mục đích có thể được xác định trên cơ sở của những động cơ thúc đẩy khác nhau.
Mục đích phạm tội biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Những hành vi phạm tội giống nhau về mặt khách quan nhưng khác nhau về mục đích, thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau.
4. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
Trong những hành vi phạm tội với lỗi cố ý, sau khi xuất hiện động cơ, mục đích và lập kế hoạch thực hiện, người phạm tội thường cân nhắc một lần nữa: có thực hiện hành động để đạt mục đích đã định hay không? Vì vậy quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự lựa chọn cuối cùng của người phạm tội về mục đích, phương án, phương tiện phạm tội, thể hiện ý chí và lý trí của người phạm tội, thái độ của họ đối với hành vi phạm tội và hậu quả của nó.
Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể được đưa ra trong chốc lát dưới tác động trực tiếp của tình huống, hoặc xuất phát từ những khuôn mẫu hành động đã có trong quá khứ, hoặc là kết quả của một quá trình đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể là quyết định có cơ sở, hợp lý, tối ưu hoặc là quyết định nông nổi, manh động, thiếu cơ sở. Điều này phụ thuộc vào nhận thức và các đặc điểm tâm lý khác của người phạm tội. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ của các chuẩn mực xã hội, thì chúng luôn là quyết định sai lầm, đáng lên án và người phạm tội thường là người có những lệch lạc về nhân cách, người thiển cận, vì cái trước mắt mà bỏ qua cái râu dài.
5. Điều kiện, hoàn cảnh phạm tội
Mỗi hành vi phạm tội luôn được thực hiện trong một tình huống nhất định với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và những sự kiện có liên quan xảy ra trong tình huống đố. Chúng là mặt khách quan của tội phạm. Khi phân tích tâm lý hành vi phạm tội, bạn không thể bỏ qua yếu tố này. Chính sự tác động qua lại giữa điều kiện, hoàn cảnh của tình huống bên ngoài với đặc điểm nhân cách bên trong đã đưa đến phản ứng trả lời của con người, đó là những hành vi, kể cả hành vi phạm tội. Chính những tác động từ bên ngoài môi trường sống lên cá nhân đã làm cho nhu cầu chưa được thoả mãn ờ họ trở thành động cơ thúc đẩy họ hành động. Cũng chính điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình hình thành và thực hiện hành vi phạm tội. Khi xác định mục đích, lập kế hoạch, lựa chọn công cụ, phương tiện phạm tội, khi đưa ra quyết định thực hiện, con người không những cân nhắc, đánh giá năng lực của bản thân, mà còn phân tích tình huống, dự đoán hậu quả của hành vi. Sự nhận thức đánh giá tình huống không đúng có thể đưa con người đến với những hành vi lệch chuẩn, hành vi phạm pháp và phạm tội. Ví dụ: phạm tội ưong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Nguyên nhân của sự phản ánh tình huống một cách sai lệch có thể do một số yếu tố khách quan của tình huống đã cản trở nhận thức của con người, nhung cơ bản vẫn là do những khiếm khuyết trong tâm lý, nhân cách của họ: do hiểu biết hạn chế, do nông nổi, cẩu thả, do tính tự tin thừa thãi… Điều này được biểu hiện rất rõ trong những hành vi phạm tội với lỗi vô ý. Trong những hành vi phạm tội với lỗi cố ý sự phản ánh tình huống thường có ý nghĩa hạn chế hơn, bởi vì ở đây, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình, hậu quả của nó nhưng vẫn quyết định thực hiện.
Tóm lại, hành vi phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa các đặc điểm tâm lý, nhân cách bên trong con người với điều kiộn, hoàn cảnh bên ngoài. Vai trò của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài thể hiện ở chỗ: chúng là những yếu tố hoặc kích thích hoặc cản trở con người thực hiện hành vi phạm tội. Sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài có thể làm thay đổi ý đồ của người phạm tội và làm xuất hiộn ý đồ mới.