1. Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Người tố giác tội phạm là người phát hiện và tố giác hành vi có dấu hiệu tội phạm vối cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Người báo tin về tội phạm là người đã cung cấp thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Người kiến nghị khởi tố là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đề nghị bằng văn bản kèm chứng cứ, tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Tố giác và tin báo về tội phạm là những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định người tố giác, báo tin về tội phạm và kiến nghị khởi tố có quyền và nghĩa vụ pháp lý cần thiết nên trong nhiều trường hợp hạn chế khả năng tham gia tố tụng của họ, ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để khắc phục hạn chế này của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố là người tham gia tố tụng hình sự.
Xem thêm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố
2. Người làm chứng
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định, người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể triệu tập đến làm chứng. So với quy định này thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng và rộng hơn. Theo đó, người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Là người biết được các tình tiết có liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, không có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án nên người làm chứng có vai trò quan trọng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án.
Người làm chứng có thể trực tiếp biết các tình tiết có liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, họ cũng có thể biết các tình tiết đó thông qua người khác. Họ tham gia tố tụng để khai báo những gì họ biết về vụ án nên họ phải trực tiếp tham gia tố tụng, không thể thông qua người đại diện.
Xem thêm: Người làm chứng trong tố tụng hình sự
3. Người chứng kiến
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Để bảo đảm cho việc tiến hành một số hoạt động tố tụng được khách quan, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cần phải có sự tham gia của người chứng kiến, đồng thời quy định, những người sau đây không được làm người chứng kiến:
– Người thân thích của người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc;
– Người dưới 18 tuổi;
– Có lý do khác cho thấy người đó không khách quan.
Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định những người không được làm người chứng kiến nhằm loại trừ và ngăn ngừa những trường hợp do quan hệ tình cảm cá nhân, do hạn chế năng lực nhận thức, năng lực hành vi… mà khó có thể xác nhận được hành vi tố tụng, hoạt động tố tụng mà họ chứng kiến một cách khách quan, đúng đắn.
Tuy nhiên, tùy theo từng hoạt động tố tụng mà người chứng kiến còn phải có các điều kiện khác nhằm bảo đảm danh dự, nhân phẩm, uy tín… cũng như bảo đảm tính khách quan của việc tiến hành các hoạt động tố tụng. Cụ thể là điều kiện về giới khi khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, buộc phải có người cùng giới chứng kiến; điều kiện về người chứng kiến là người đại diện chính quyền, cơ quan, tổ chức như khi tiến hành khám xét, bắt người… phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú, làm việc, học tập… chứng kiến.
Xem thêm: Người chứng kiến trong tố tụng hình sự
4. Người giám định
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.
Người giám định có thể là giám định viên tư pháp hoặc người giám định tư pháp theo vụ việc. Giám định viên tư pháp là người đủ tiêu chuẩn quy định, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện giám định tư pháp. Người giám định tư pháp theo vụ việc là người đủ tiêu chuẩn quy định, được trưng cầu, yêu cầu giám định.
Xem thêm: Người giám định trong tố tụng hình sự

5. Người định giá tài sản
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên mốn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yều cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:
– Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo;
– Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
– Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Việc thay đổi người định giá tài sản do cơ quan yêu cầu định giá tài sản quyết định.
Xem thêm: Người định giá tài sản trong tố tụng hình sự
6. Người phiên dịch, người dịch thuật
Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tổ tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Do vậy, trong trường hợp mà vụ án có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt thì phải có người phiên dịch, người dịch thuật.
Xem thêm: Người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự
7. Người bào chữa
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Một trong những thay đổi lớn và quan trọng trong quy định về những người tham gia tố tụng là chế định bào chữa. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chỉ mở rộng diện người có quyền bào chữa mà còn mở rộng diện người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa như Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, người bào chữa tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị buộc tội không có tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội và giúp đỡ người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án không chỉ để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh oan sai trong quá trình giải quyết vụ án góp phần tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp của nước ta.
Người bào chữa có thể là những người sau:
– Luật sư:Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Hoạt động bào chữa của Luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
– Người đại diện của người bị buộc tội: Người đại diện hợp pháp cho người bị buộc tội là cha, mẹ hoặc người giám hộ của người bị buộc tội chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất mà thể tự bào chữa hoặc người có nhược điểm về tâm thẩn; đại diện theo pháp luật của bị can, bị cáo là pháp nhân.
– Bào chữa viên nhân dân:
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định bào chữa viên nhân dân và phát huy hơn nữa việc tham gia tố tụng của họ, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ hơn chế định bào chữa viên nhân dân. Theo đó, Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
– Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý:
Những người sau đây thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý: Người có công với cách mạng; Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi; Người khuyết tật; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; Người nhiễm HIV .
Khắc phục hạn chế trong quy định về người bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý. Quy định này sẽ bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội trong trường hợp họ thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý nói trên.
Xem thêm: Người bào chữa là gì? Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
8. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là người được người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là: Luật sư; bào chữa viên nhân dân; người đại diện; trợ giúp viên pháp lý.
Xem thêm: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
9. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể là: Luật sư; người đại diện; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý.
Xem thêm: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
10. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội là người được pháp nhân cử làm đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng hoặc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định (trong trường hợp pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiêu người cùng là đại diện theo pháp luật).
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội là vấn đề mới được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ của mình. Nếu có sự thay đổi những thông tin này thì người đại diện theo pháp luật phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Xem thêm: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội