1. Khởi tố vụ án hình sự là gì?
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, đánh dấu sự bắt đầu của các hoạt động điều tra trong lĩnh vực hình sự. Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, việc khởi tố vụ án chỉ được thực hiện khi có dấu hiệu tội phạm rõ ràng.
Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để xác định xem có đủ căn cứ để khởi tố hay không. Nếu có đủ căn cứ, cơ quan này sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, từ đó mở ra quá trình điều tra và xử lý vụ việc theo quy định của pháp luật.
Khởi tố vụ án hình sự khác với khởi tố bị can, vì khởi tố vụ án liên quan đến việc xác định có hay không có tội phạm xảy ra, trong khi khởi tố bị can là việc xác định một cá nhân cụ thể có liên quan đến hành vi phạm tội.
2. Những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Cụ thể là các tội sau:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác)
– Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Lưu ý: Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.