Trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự

0 392

1. Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục tiếp nhận tin tức tội phạm đối với từng nhóm chủ thể:

Thứ nhất, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận (có thể ghi âm, ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận). Nếu tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Thứ hai, công an cấp xã, phường, thị trấn, đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các đồ vật, tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Thứ ba, đối với các cơ quan, tổ chức khác, sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm phải chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền, trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản (Điều 146 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Hình minh họa. Trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự

2. Kiểm tra, xác minh các nguồn tin về tội phạm

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gắn với thẩm quyền điều tra, do đó cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, xác minh nguồn tin để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra.

Thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố. Đối với tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì ngày tính thời hạn kiểm tra, xác minh là ngày cơ quan, phương tiện thông tin đại chúng phát nguồn tin đó. Trong trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải tiến hành kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh đối với loại vụ việc phức tạp này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng (Điều 147). Như vậy, điểm mới trong quy định này là gia hạn thời hạn giải quyết tin báo tố giác về tội phạm, đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn tố tụng nước ta thời gian trước đây, đồng thời bảo đảm chặt chẽ, tránh lợi dụng kéo dài thời gian giải quyết dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Những biện pháp kiểm tra, xác minh nguồn tin bao gồm:

  • Tiến hành kiểm tra giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến sự việc cung cấp những tài liệu, vật cần thiết có giá trị chứng minh sự việc phạm tội như các văn bản, giấy tờ, tài liệu hoặc các biên bản kiểm tra, kết luận thanh tra… Nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân có liên quan phải chấp hành các yêu cầu của cơ quan khởi tố;
  • Yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có liên quan giải thích những vấn đề liên quan đến vụ việc. Nội dung yêu cầu giải thích chủ yếu để tìm ra dấu hiệu tội phạm. Khi yêu cầu giải thích, người xác minh không được áp dụng biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu cầu giải thích;
  • Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến hành ngay việc lấy lời khai của người bị bắt;
  • Trong những trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ, xác định dấu hiệu tội phạm.

Tóm lại, các tin tức về tội phạm đều phải được kiểm tra, xác minh và tuỳ theo tính chất từng tin báo, từng sự việc, từng đối tượng mà đề ra biện pháp kiểm tra phù hợp. Việc kiểm tra phải tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Sau khi kiểm tra, xác minh, kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được Cơ quan điều tra gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người báo tin hoặc tố giác biết.


3. Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự

3.1. Quyết định khởi tố vụ án hình sự

Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định có sự việc phạm tội và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm làm cơ sở để tiến hành các hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp tố tụng tiếp theo.

Các hoạt động điều tra chỉ được coi là hợp pháp nếu được thực hiện sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án (trừ trường hợp khám nghiệm hiện trường để thu thập các dấu vết của tội phạm, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và khám xét trong các trường hợp này). Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm đã xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Ngày khởi tố vụ án hình sự là thời điểm bắt đầu để tính thời hạn điều tra vụ án. Chính vì vậy, trong quyết định khởi tố vụ án phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; ghi rõ căn cứ pháp lý để quyết định khởi tố vụ án; ghi rõ tội danh, điều, khoản Bộ luật Hình sự được áp dụng làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Việc ghi rõ căn cứ khởi tố trong quyết định giúp cho người có thẩm quyền khởi tố phải cân nhắc kỹ, tránh sự lạm dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng. Ví dụ: nếu vụ án được khởi tố về tội theo khung có mức hình phạt cao nhất dưới 02 năm tù thì không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.

Để việc tiến hành điều tra vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát đã khởi tố vụ án phải gửi quyết định khởi tố đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố. Trong trường hợp Hội đồng xét xử khởi tố vụ án thì quyết định khởi tố được gửi tới Viện kiểm sát cùng cấp để xem xét, kèm theo tài liệu liên quan.

Việc xác định tội danh, hành vi phạm tội, điều khoản Bộ luật Hình sự được áp dụng trong quyết định khởi tố vụ án sẽ là cơ sở cho nhiều vấn đề của quá trình tố tụng tiếp theo cả về trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo.

Tuy nhiên, khi tiến hành các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra có điều kiện thu thập thêm tài liệu, chứng cứ. Các tài liệu, chứng cứ mới được thu thập giúp cho nhận thức, đánh giá về hành vi phạm tội đầy đủ, chính xác hơn. Vì vậy, những nhận thức ban đầu về tội phạm khi khởi tố vụ án đã không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc mới phát hiện thêm tội phạm khác thì quyết định khởi tố cần phải được thay đổi hoặc bổ sung cho phù hợp. Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa bị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Việc thay đổi quyết định khởi tố được tiến hành khi có căn cứ xác định tội phạm đó khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra. Còn khi xác định còn có tội phạm khác chưa bị khởi tố thì tiến hành quyết định khởi tố bổ sung vụ án hình sự.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mới có thẩm quyền thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư tuy có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự nhưng chỉ trong một thời gian ngắn phải chuyển cho Viện kiểm sát (trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì các cơ quan này khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng) hoặc cho Cơ quan điều tra (trường hợp tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hổ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày). Đối với các cơ quan khác của Công an nhân dân và Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, mặc dù được giao thẩm quyển khởi tố vụ án, nhưng chỉ được tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu và cũng phải chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày. Thẩm quyền thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố đối với các cơ quan này cũng không được đặt ra. Quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử được giao ngay cho Viện kiểm sát để xem xét việc điều tra, và sau khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử giải tán nên thẩm quyền thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố cũng không đặt ra.

3.2. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự

Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố xác định nguồn tin về tội phạm hoặc một sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi có một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đó là: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

Khi có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố trong phạm vi trách nhiệm của mình ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố.

Sau khi ra quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố, nếu xét thấy cần thiết, cơ quan đã ra quyết định gửi hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết bằng biện pháp hành chính, xử lý kỷ luật, trách nhiệm dân sự… Cơ quan đã ra quyết định phải thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết lý do.

Trong thời hạn 24 giờ, cơ quan đã ra quyết định phải gửi quyết định không khởi tố vụ án, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc ra quyết định. Nếu thấy việc ra quyết định không có căn cứ thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án và ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra.

4.7/5 - (99 bình chọn)

 
® 2024 LawFirm.Vn - Thông tin do LawFirm.Vn cung cấp không thay thế cho tư vấn pháp lý. Nếu bạn yêu cầu bất kỳ thông tin nào, bạn có thể nhận được cuộc gọi điện thoại hoặc email từ một trong những Quản lý của chúng tôi. Để biết thêm thông tin, vui lòng xem chính sách bảo mật, điều khoản sử dụng, chính sách cookie và tuyên bố miễn trừ trách nhiệm của chúng tôi.
Có thể bạn quan tâm
Để lại câu trả lời

Trường "Địa chỉ email" của bạn sẽ không được công khai.

ZaloFacebookMailMap