Phân tích tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự 2015
1. Hiếp dâm là gì?
Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
Điều 141. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
[…]
Ví dụ: Anh A ép buộc chị B quan hệ tình dục bằng cách đe dọa sử dụng vũ lực nếu chị C không đồng ý. Dù chị C không muốn, nhưng vì sợ hãi, chị C buộc phải chấp nhận. Anh A có thể bị truy cứu hình sự về Tội hiếp dâm.
2. Các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm
Cấu thành tội phạm gồm 04 yếu tố, bao gồm: mặt khách thể, mặt chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan.
2.2. Mặt khách thể
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại đến bằng cách gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đối với quan hệ xã hội đó.
– Khách thể chung của tội hiếp dâm là trật tự, an toàn xã hội và quyền con người. Tội này xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.
– Khách thể loại của tội hiếp dâm là sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người.
– Khách thể trực tiếp của tội hiếp dâm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm và danh dự của con người. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Đối tượng tác động của tội hiếp dâm là sức khỏe, thân thể, nhân phẩm và danh dự con người.
2.2. Mặt khách quan
Về hành vi: Có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
Để xác định tội hiếp dâm thì người phạm tội phải có hành vi giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác.
Theo định nghĩa tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định về các tội xâm hại tình dục trong Bộ luật Hình sự, thì:
– Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
– Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
+ Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
+ Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
…
– Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật… dẫn đến không thể chống cự được; người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, thuốc kích thích, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác… dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.
– Thủ đoạn khác bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Trái với ý muốn của nạn nhân là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm tội.
Hành vi hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan trên chứ không hẳn là khi xảy ra hậu quả là hành vi giao cấu và quan hệ tình dục được thực hiện xong. Tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành hình thức, nếu tự ý chấm dứt hành vi phạm tội thì có thể xem xét không truy cứu về hành vi này nhưng đủ yếu tố sẽ truy cứu với các tội danh khác.
2.3. Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
2.4. Mặt chủ thể
Chủ thể của tội hiếp dâm là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm nếu thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (tức thuộc khung 2, 3 và 4 của tội hiếp dâm).
3. Hình phạt áp dụng đối với tội hiếp dâm
Tội hiếp dâm có 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể:
Khung | Hình phạt | Hành vi |
Khung 1
(Khung hình phạt cơ bản) |
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm | Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân |
Khung 2
(Khung hình phạt tăng nặng) |
Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm | Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm. |
Khung 3
(Khung hình phạt tăng nặng)
|
Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân | Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. |
Khung 4
(Khung hình phạt tăng nặng)
|
Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm | Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khung 2 hoặc khung 3, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. |
Khung 5
(Khung hình phạt bổ sung) |
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |