1. Định nghĩa quan hệ pháp luật ngân sách
Từ định nghĩa trên đây về Luật Ngân sách cho thấy, quan hệ pháp luật ngân sách là các quan hệ xã hội, hình thành trong quá trình tập trung, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, cũng như các quan hệ về quản lý quỹ ngân sách nhà nước được các quy phạm pháp luật về ngân sách điều chỉnh.
Các quan hệ pháp luật ngân sách, căn cứ vào tính chất của chúng có thể phân chia thành các nhóm sau:
– Các quan hệ về phân cấp quản lý, điều hành ngân sách. Nhóm quan hệ này hình thành trong lĩnh vực tổ chức hệ thống ngân sách, phân định quyền hạn về ngân sách và phân phối thu chi ngân sách giữa các cấp chính quyền Nhà nước;
– Các quan hệ trong quá trình lập và thông qua dự toán ngân sách Nhà nước giữa các cơ quan chính quyền Nhà nước các cấp, cũng như tất cả các chủ thể có liên quan đến sử dụng kinh phí từ ngân sách Nhà nước;
– Các quan hệ về chấp hành ngân sách Nhà nước. Nhóm quan hệ này hình thành trong quá trình thực hiện các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước trong thực tiễn;
– Các quan hệ về quyết toán ngân sách Nhà nước, bao gồm lập quyết toán và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước, các quan hệ về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước.
2. Chủ thể của quan hệ pháp luật ngân sách
Hiện nay trong khoa học pháp lý vẫn còn tồn tại những ý kiến khác nhau về chủ thể của Luật Ngân sách.
Nếu đứng trên góc độ nhìn nhận ngân sách nhà nước như một công cụ của Nhà nước, gắn liền với Nhà nước, phục vụ cho hoạt động của Nhà nước, thì người ta cho rằng chủ thể của quan hệ pháp luật ngân sách gồm 3 loại:
1. Các cơ quan quyền lực Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;
2. Các cơ quan chấp hành và điều hành, gồm Chính phủ, UBND các cấp, các cơ quan tài chính các cấp;
3. Các cơ quan Nhà nước khác, các doanh nghiệp Nhà nước – những cơ quan và tổ chức có liên quan trực tiếp đến việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước.
Ý kiến trên đây thể hiện quan điểm coi ngân sách nhà nước như là một công cụ kinh tế của Nhà nước gắn với việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách thuộc phạm trù tài chính công, và do vậy các chủ thể của quan hệ ngân sách quan hệ pháp luật ngân sách) cũng chỉ bao gồm các chủ thể trực tiếp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Các tổ chức, cá nhân khác không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật ngân sách.
Tuy nhiên, nếu hiểu tài chính nói chung hay ngân sách nhà nước nói riêng theo nghĩa rộng hơn, tức không phải chỉ có Nhà nước và các cơ quan đại diện của nó mới tiến hành các hoạt động tài chính mà còn nhiều tổ chức và cá nhân khác cũng tiến hành các hoạt động tài chính, cùng tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách trong quá trình tập trung và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ của quỹ này, thì chủ thể của quan hệ pháp luật ngân sách ngoài 3 loại trên đây còn bao gồm bất kể tổ chức và cá nhân nào có tham gia vào quan hệ ngân sách và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật ngân sách, ví dụ các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế, các cá nhân trong quan hệ thu nộp thuế.
3. Đặc điểm của các quan hệ pháp luật ngân sách
Luôn có sự tham gia (ít nhất là một bên chủ thể) của Nhà nước hoặc các cơ quan đại diện của nó trong tất cả các quan hệ pháp luật ngân sách.
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách không phải do tự ý xác lập một quan hệ pháp luật mà được luật pháp quy định trước, kể cả quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không phải do thỏa thuận mà có, mà do luật định và buộc các bên phải tuân theo.
Việc tham gia các quan hệ pháp luật ngân sách của các chủ thể trước hết vì lợi ích kinh tế – tài chính của Nhà nước, của xã hội.