1. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Sau khi thụ lý hổ sơ vụ án, trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được quá thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trong giai đoạn truy tố, bị can đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đối với bị can đã hết, nếu thấy cần thiết, Viện kiểm sát có quyền ra lệnh tạm giam nhưng thời hạn tạm giam không quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Trường hợp thời hạn nghiên cứu hồ sơ vẫn không đủ và cần thiết phải tạm giam bị can thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn tạm giam nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với bị can dưới 18 tuổi, chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải trong trường hợp thật cần thiết.
Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Thời hạn tạm giam đối với bị can dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Khi không còn căn cứ để tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Trong giai đoạn truy tố, nếu xét thấy cẩn thiết, Viện kiểm sát xem xét áp dụng hoặc hủy biện pháp cưỡng chế theo quy định tại các điều 126,127,128,129,130 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
Trong quá trình nghiên cứu hổ hơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm tra xem hồ sơ có bảo đảm các thuộc tính của chứng cứ hay không, đặc biệt là cần phải kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng ở các giai đoạn trước, xác định việc có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, việc bỏ lọt tội phạm, hồ sơ chưa đầy đủ chứng cứ.
Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định trả hổ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau:
– Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
– Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác;
– Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can;
– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Quá trình nghiên cứu hổ sơ, Kiểm sát viên phải xem xét trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã điều tra đầy đủ hay chưa, việc nghiên cứu này của Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về các vấn đề cơ quan có thẩm quyền tố tụng phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can và đặc điểm về nhân thân của bị can; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điểu kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Nếu thiếu một trong những vấn đề trên mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được thì trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Trong giai đoạn truy tố, đối với trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nghĩa là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Ví dụ: Có căn cứ cho thấy Điều tra viên có hành vi bức cung, dùng nhục hình khi hỏi cung bị can; Điều tra viên là những người phải từ chối hoặc bị thay đổi theo Điều 49, Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015…
Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung phải ghi rõ vấn đề cẩn điều tra bổ sung; số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành; căn cứ ban hành; nội dung của văn bản; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra quyết định và đóng dấu.
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cẩu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế.

3. Quyết định tạm đình chỉ vụ án
Quyết định tạm đình chỉ vụ án là quyết định tạm ngừng việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can khi có những căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định.
Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ sau đây:
– Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trường hợp này được xác định là sau khi hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát thì phát hiện bị can bị bệnh tâm thần, bệnh hiểm nghèo. Viện kiểm sát chỉ ra quyết định tạm đình chỉ khi có kết luận giám định tư pháp, đổng thời Viện kiểm sát còn ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can.
– Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố, trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án.
– Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả.
Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do, căn cứ tạm đình chỉ vụ án, các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can thì tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
4. Quyết định đình chỉ vụ án
Quyết định đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can khi có những căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định.
Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ sau đây:
– Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đó là: bị hại đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định bị hại đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy bị hại đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
– Khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đó là: Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cẩu khởi tố.
– Có căn cứ quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
– Có căn cứ quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, đây là những căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, gồm có ba trường hợp:
Thứ nhất, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi có quyết định đại xá.
Thứ hai, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Thứ ba, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đê nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
– Có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục.
Quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do và căn cứ đình chỉ vụ án, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, xử lý vật chứng, tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can thì quyết định đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
5. Quyết định truy tố bị can
Sau khi nghiên cứu hổ sơ vụ án theo thời hạn được quy định, nếu có đầy đủ căn cứ, chứng cứ, Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng là cơ sở để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Cơ cấu của bản cáo trạng:
Phần cơ sở pháp lý, cáo trạng xác định được lập dựa trên những căn cứ pháp lý nào, căn cứ vào quyết định tố tụng nào.
Căn cứ vào Điều 243 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bố cục của bản cáo trạng được chia làm 02 phần:
– Phần nội dung của bản cáo trạng: Dựa trên cơ sở kết quả điều tra và quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản cáo trạng phải xác định được những vấn đề sau:
+ Diễn biến của hành vi phạm tội (hành vi của bị can; ngày, giờ, tháng, năm; địa điểm);
+ Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
+ Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
+ Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can;
+ Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng;
+ Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
– Phần kết luận của bản cáo trạng: Phần kết luận của bản cáo trạng có những nội dung như sau:
+ Tổng hợp ngắn gọn hành vi phạm tội của bị can hoặc từng bị can; tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; vai trò của từng bị can trong vụ án.
+ Nêu lý lịch tư pháp của bị can: Họ, tên, tên gọi khác, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, nơi sinh, nơi cư trú, quốc tịch, dân tộc, nghề nghiệp, chức vụ trước khi phạm tội, trình độ học vấn; họ, tên, tuổi cha, mẹ (sống hay chết), vợ, chồng, con; nếu bị can là thương binh, bệnh binh hoặc có huân, huy chương hoặc các danh hiệu được Nhà nước phong tặng khác thì cần ghi rõ; tiền án, tiền sự; biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đang bị áp dụng.
+ Bị can phạm tội gì; điểm, điều, khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Nội dung quy định của điểm, khoản, điều đó tương ứng với hành vi phạm tội của bị can.
Căn cứ vào những vấn đề được xác định ở trên, quyết định:
+ Truy tố bị can (họ, tên) ra trước Tòa án (huyện, tỉnh…) để xét xử theo tội danh và điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự theo tội danh tương ứng.
+ Vấn đề dân sự (nếu có).
+ Xử lý vật chứng của vụ án (nếu có).
Phần cuối cùng của bản cáo trạng ghi: Kèm theo cáo trạng có hổ sơ vụ án gồm bao nhiêu tài liệu, đánh số thứ tự như thế nào; bảng kê vật chứng; chữ ký của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và có đóng dấu của cơ quan.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án. Trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày.
Trường hợp vụ án có bị can bị tạm giam thì trước khi hết thời hạn tạm giam 07 ngày, Viện kiểm sát thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định việc tạm giam bị can khi nhận hồ sơ vụ án.
6. Quyết định phục hồi vụ án
Quyết định phục hồi vụ án là quyết định tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với bị can đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định phục hồi vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu vụ án bị đình chỉ do đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc tội phạm đã được đại xá mà bị can không đồng ý và yêu cầu phục hồi vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định phục hồi vụ án. Có thể phục hồi đối với toàn bộ vụ án hoặc phục hồi vụ án đối với từng bị can.
Quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lý do và căn cứ phục hồi vụ án, các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại khoản 2 Điểu 132 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định, Viện kiểm sát phải giao quyết định phục hồi vụ án hoặc quyết định phục hồi vụ án đối với bị can cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi cho cơ quan đã kết thúc điều tra vụ án, người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc giao, nhận quyết định phục hổi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Thời hạn quyết định việc truy tố khi phục hồi vụ án được tính theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự kể từ ngày Viện kiểm sát ra quyết định phục hồi vụ án.
Khi phục hồi vụ án, Viện kiểm sát có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn quyết định việc truy tố.