1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Thuật ngữ “trách nhiệm” được sử dụng trong đời sống hàng ngày với nhiều nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh, ngữ cảnh cụ thể.
“Trách nhiệm” thường được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: Thứ nhất, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Với nghĩa này, trách nhiệm sẽ là những nghĩa vụ, bổn phận phải làm, nên làm, được làm hoặc không được làm, có thể xuất phát từ sự tự nguyện, tự giác hay buộc phải thực hiện do yêu cầu, đòi hỏi của các quy phạm xã hội (quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật…). Thứ hai, trách nhiệm được hiểu là chịu trách nhiệm, là sự gánh chịu hậu quả về những việc đã làm, với hàm nghĩa rằng chủ thể trách nhiệm phải chịu một thiệt hại nào đó. Trong trường hợp này, trách nhiệm đồng nghĩa với hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu, là việc chịu trách nhiệm khi thực hiện không đúng nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn.
Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng theo hai nghĩa:
– Nghĩa thứ nhất, trách nhiệm được hiểu là chức trách, công việc được giao, bao hàm cả nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Ví dụ: Điều 76 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm của Thẩm phán: “trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa án; Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật; học tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ Tòa án…..” Với cách quy định này, có thể thấy, trách nhiệm ở đây được hiểu là “nhiệm vụ, quyền hạn”. Và trên thực tế, có rất nhiều văn bản về trách nhiệm của các chức danh trong các cơ quan hành chính nhà nước được quy định theo cách hiểu này.
– Nghĩa thứ hai, trách nhiệm được hiểu theo nghĩa là “bị xử lý”, “chịu trách nhiệm”. Theo đó, trách nhiệm là những hậu quả bất lợi (là sự phản ứng mang tính chất trừng phạt của nhà nước) mà chủ thể phải gánh chịu khi thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ được giao. Ví dụ, theo Điều 77 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008, quy định về các trường hợp Miễn trách nhiệm đối với cán bộ, công chức như sau: “Cán bộ, công chức được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: 1. Phải chấp hành quyết định trái pháp luật của cấp trên nhưng đã báo cáo người ra quyết định trước khi chấp hành; 2. Do bất khả kháng theo quy định của pháp luật”. Miễn trách nhiệm trong trường hợp này, được hiểu là không phải chịu trách nhiệm, không phải gánh chịu chế tài xử lý. Như vậy, trách nhiệm ở đây được hiểu là chịu trách nhiệm.
Trong phần này, chúng ta nghiên cứu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa thứ hai. Theo đó: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu, thể hiện qua việc họ phải chịu những biện pháp cưỡng chế được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác theo quy định của pháp luật.

2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Hiểu theo nghĩa là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu, trách nhiệm pháp lý có các đặc điểm sau đây:
– Trách nhiệm pháp lý là sự lên án của nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật, là sự phản ứng của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật. Các hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ cần phải bị lên án. Trước tiên, nhà nước thể hiện thái độ không đồng tình bằng cách xây dựng chế tài quy phạm pháp luật để xác định cách thức, mức độ xử lý đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhà nước sẽ buộc các chủ thể này phải gánh chịu hậu quả pháp lý được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật.
– Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Trách nhiệm pháp lý xuất hiện khi có vi phạm pháp luật xảy ra, là hậu quả của vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật trong trạng thái có lý trí và tự do về ý chí. Nói cách khác, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý là cá nhân hoặc tổ chức có lỗi khi vi phạm các quy định của pháp luật.
Trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật cho phép áp dụng trách nhiệm pháp lý ngay cả khi không có vi phạm pháp luật, ví dụ: cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường trong trường hợp người dưới 15 tuổi gây thiệt hại; chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây cho người khác ngay cả khi không có lỗi…
– Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu. Khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nhà nước sẽ buộc chủ thể phải thực hiện các trách nhiệm của mình, thể hiện qua việc buộc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do… dựa trên cơ sở quy định tại phần chế tài của quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân tổ chức được Nhà nước trao quyền thay mặt Nhà nước áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị… Chỉ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay các chủ thể được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý. Khi có vi phạm pháp luật xảy ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay các chủ thể có quyền căn cứ theo trình tự thủ tục luật định, tiến hành xác minh vụ việc, yêu cầu chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý giải thích rõ về hành vi của mình, đồng thời buộc chủ thể có hành vi vi phạm phải chịu những thiệt hại nhất định đã được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật.
3. Các loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường trách nhiệm pháp lý được chia thành: Trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỷ luật; trách nhiệm dân sự.
– Trách nhiệm hình sự: là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do tòa án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội, được quy định trong Bộ luật Hình sự. Theo đó chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu một trong bảy hình phạt chính như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình…
– Trách nhiệm hành chính: là loại trách nhiệm do các cơ quan quản lý nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm hành chính.
– Trách nhiệm dân sự: là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự (có thể là bên tham gia quan hệ áp dụng đối với chủ thể vi phạm).
– Trách nhiệm kỷ luật: là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ thể vi phạm kỷ luật, do thủ trưởng các cơ quan, đơn vị áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên, người lao động… khi họ vi phạm kỷ luật.
Đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như hình sự – dân sự, hành chính – dân sự… Tuy nhiên, không được áp dụng đồng thời trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hành chính đối với một vi phạm. Do vi phạm hành chính có tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn so với vi phạm hình sự nên không thể là tội phạm, vì vậy, chỉ có thể truy cứu hoặc trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự đối với một vi phạm cụ thể.