Đất nước ta ngày càng hội nhập và phát triển mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt là kể từ khi gia nhập tổ chức WTO, với nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư đã thu hút được nguồn đầu tư lớn từ nước ngoài vào. Việt Nam đã dần trở thành một điểm đến ưa thích của các nhà đầu tư nước ngoài và hiện đã nhận một lượng vốn đầu tư khổng lồ trực tiếp từ nước ngoài vào.
Tính đến 20/03/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2020. Để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang hoành hành, dẫn đến việc cần có những chính sách kịp thời và phù hợp nhằm đón nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực lập pháp. Đảng và Nhà nước đã có những quyết định kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cần phải đón đầu khi dịch COVID-19 chấm dứt để khôi phục và phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn nữa. Với mục đích đó, tập thể tác giả đưa ra một số vấn đề trong bài viết “Quy định của pháp luật về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” trên cơ sở các nguyên tắc quy định của pháp luật về đầu tư tại Việt Nam hiện hành và đóng góp một số ý kiến, giải pháp để hoàn thiện hơn.
1. Khái quát về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.1. Khái niệm vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Vốn là tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành tiền có thể sử dụng trong kinh doanh.
Khả năng sử dụng được trong kinh doanh là tiêu chí cơ bản để đánh giá tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được thành tiền có giá trị là vốn. Đối với tiền phải tích tụ đến mức nhất định thì mới có thể sử dụng trong kinh doanh với tư cách là vốn. Đối với tài sản nếu chỉ thuần tuý có giá trị và giá trị sử dụng mà không có khả năng chuyển đổi thành tiền và sử dụng trong kinh doanh thì cũng không có giá trị là vốn. Đối với các quyền tài sản, nếu không có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt để hoạch toán trong kinh doanh thì không thể dùng để đầu tư nên cũng không được xem là vốn. Vốn là tiền đề để thực hiện các hoạt động đầu tư.
Để hiểu được khái niệm về vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải hiểu vốn đầu tư. Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài… nhằm để: tái sản xuất, các tài sản cố định để duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, để đổi mới và bổ sung các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các chi phí cần thiết tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới.
Hiện nay khái niệm về vốn đầu tư ở nhiều nơi còn khá mơ hồ và nhiều người chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Tuy nhiên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì cụm từ “vốn đầu tư” sẽ được dùng rất phổ biến.
Vốn đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hoặc tổ chức nước này vào nước khác bằng cách thiết lập nhà xưởng sản xuất, cơ sở kinh doanh. Mục đích nhằm đạt được các lợi ích lâu dài và nắm quyền quản lý cơ sở kinh doanh này.
Vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là việc đầu tư vốn dưới hình thức tiền mặt hoặc tài sản của nhà đầu tư không có quốc tịch Việt Nam để thực hiện một hoặc một số hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời gian nhất định và tại một số địa điểm cụ thể, dưới hình thức đầu tư nhất định.
1.2. Đặc điểm vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được phép góp vốn bằng tiền và tài sản khác như máy móc, thiết bị,… để hoạt động đầu tư kinh doanh và là tài sản hợp pháp, không bị quốc hữu hoá hay bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Mục đích đem vốn vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài là để đầu tư, mở rộng thị trường và tạo lợi nhuận. Khi nhà đầu tư đầu tư trên quốc gia sở tại, việc đẩy mạnh cạnh tranh so với các đối thủ trong nước. Chính vì vậy, nhà đầu tư sẽ tìm kiếm những thị trường mới thông qua hình thức đầu tư ra nước ngoài. Nhà đầu tư ở đây có thể hiểu là một tổ chức hoặc một cá nhân độc lập, đầu tư thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay góp vốn vào các công ty hiện hữu tại Việt Nam. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài chính là nguồn vốn của họ rất lớn.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn còn được coi là một hàng hoá đặc biệt do có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Do đó, việc huy động vốn bằng nhiều con đường: phát hành cổ phiếu, trái phiếu; tín dụng thương mại; vay ngân hàng… đang được các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm và được vận dụng linh hoạt.
Vốn phải gắn với chủ sở hữu, mỗi đồng vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ. Cũng cần phân biệt quyền sử dụng với quyền sở hữu vốn. Tùy theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn.
Vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà còn được thể hiện bằng những tài sản vô hình như: bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu… Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, những tài sản vô hình ngày càng có vai trò quan trọng, tạo khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư nước ngoài.

1.3. Phân loại vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Căn cứ theo khái niệm về vốn đầu tư quy định tại khoản 23 Điều 3 Luật Đầu tư 2020 ta có thể thấy rõ vốn đầu tư của doanh nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp nước ngoài nói riêng không chỉ đơn giản bằng tiền tệ mà có thể là tài sản khác như trang thiết bị, dây truyền sản xuất, kỹ thuật công nghệ tiên tiến,… Như vậy, hiển nhiên nhà đầu tư nước ngoài được phép góp vốn bằng tài sản khác hoặc tiền tệ, miễn đó là tài sản hợp pháp, không bị quốc hữu hóa hay bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Từ khái niệm luật định này ta có thể chia vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành hai loại “tiền tệ” và “tài sản khác”. Mỗi loại vốn đầu tư này sẽ có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, đối với vốn đầu tư ngước ngoài bằng “Tiền tệ”. Đầu tiên chúng ta cần phải hiểu Tiền tệ là vật ngang giá chung có tính thanh khoản cao nhất dùng để trao đổi, so sánh giá trị của hàng hóa, dịch vụ. Được Nhà nước phát hành bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ hoặc được một thuật toán mã hóa trên một mạng máy tính đảm bảo phát hành như Bitcoin, Ethereum,… Mỗi quốc gia sẽ có mỗi loại tiền tệ khác nhau với các mệnh giá và giá trị khác nhau. Từ khái niệm về tiền tệ này chung ta có thể dễ dàng nhận thấy, vốn đầu tư của một nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng tiền tệ thực chất là việc một tổ chức hoặc một cá nhân nước ngoài muốn sử dụng nguồn tiền mà họ có từ nước sở tại đem đến đầu tư vào một tổ chức cá nhân nào đó tại Việt Nam để tìm kiếm các khoản lợi nhuận, cũng như đạt được các mục tiêu khác mà doanh nghiệp đề ra như mở rộng thị trường,…
Việc các nhà đầu tư nước ngoài đem nguồn vốn ngoại tệ vào Việt Nam để đầu tư không chỉ giúp đem lại lợi nhuận cho những nhà đầu tư nước ngoài đó mà còn giúp Việt Nam ta tăng lượng dự trữ ngoại tệ (tăng dự trữ ngoại hối). Lượng dự trữ ngoại tệ này rất quan trọng đối với sự thịnh vượng kinh tế của một quốc gia. Nếu không có dự trữ đầy đủ, một nền kinh tế có thể bị đình trệ và một quốc gia sẽ có khả năng không thể thanh toán cho những mặt hàng nhập khẩu quan trọng, như dầu thô, hay thanh toán nợ nước ngoài.
Thứ hai, đối với vốn đầu tư nước ngoài bằng các tài sản khác (chuyển giao công nghệ, trang thiết bị, kỹ thuật tiên tiến,…) hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước muốn hợp tác với nhau thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. Theo hình thức đầu tư này thì một nhà đầu tư nước ngoài sẽ cung cấp thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, kỹ năng, quy trình,… để doanh nghiệp trong nước thực hiện việc sản xuất kinh doanh. Những công nghệ, quy trình,… này của nhà đầu tư nước ngoài sẽ được quy đổi thành tỷ lệ vốn được góp hoặc vốn đầu tư vào doanh nghiệp được hợp tác trong nước. Từ đó phân chia lợi nhận, phân chia sản phẩm. Như vậy thay vì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư nguồn vốn bằng “Tiền tệ” thì họ vẫn có thể đầu tư bằng các loại tài sản khác như công nghệ, kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu,… và việc đầu tư nguồn vốn này cũng đem lại lợi ích rất to lớn đối với doanh nghiệp nói riêng và nền khoa học kỹ thuật của Việt Nam nói chung. Bởi lẽ nhờ những hợp tác như vậy thì nền hoa học kỹ thuật của Việt Nam càng ngày càng nâng cao.
2. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện quy định về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.1. Thực trạng
Để thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã đưa ra nhiều ưu đãi đầu tư, bao gồm các ngành nghề ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư, dự án có quy mô vốn lớn, dự án tại khu vực nông thôn sử dụng lao động địa phương, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học công nghệ. Trong số đó, các ưu đãi về ngành nghề nhận được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư. Các ngành nghề ưu đãi và đặc biệt ưu đãi đầu tư được quy định trong Phụ lục I Nghị định số 118/2015/NĐ-CP. Nhìn chung, danh mục này ghi nhận nhiều ngành nghề có tiềm năng phát triển và đem lại lợi ích lớn không chỉ cho xã hội mà còn cho bản thân nhà đầu tư, ví dụ như công nghệ cao, công nghệ thông tin, nông nghiệp… Đây cũng là những lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, các quốc gia không ngừng thay đổi, đầu tư đổi mới công nghệ, nhất là những công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực cạnh tranh, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này. Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách, chiến lược để nâng cao hiệu quả trong tiếp nhận và ứng dụng công nghệ tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước; cũng như đưa công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, lĩnh vực được coi là khâu then chốt, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Số liệu vừa được công bố, tính đến ngày 20/12/2020, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,5 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019.
Chuyển giao công nghệ nước ngoài ở Việt Nam, nhất là công nghệ cao từ vốn đầu tư nước ngoài đến nay vẫn còn hạn chế. Khả năng thu hút vốn đầu tư của một quốc gia tăng lên khi các nhà đầu tư chắc chắn về lợi ích đầu tư của mình, vốn chủ yếu thông qua cơ chế bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống thực thi pháp luật hiệu quả. Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của một quốc gia là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển giao công nghệ hoặc đầu tư vào một quốc gia của các doanh nghiệp. Nếu mức độ bảo hộ các quyền với bằng sáng chế tại một quốc gia tăng 1%, tỷ lệ đầu tư FDI sẽ tăng 2,8%. Tương tự, nếu mức độ bảo hộ thương hiệu và bản quyền tăng 1%, tỷ lệ đầu tư FDI sẽ tăng tương ứng 3,8 và 6,8%.
Tiếp nhận công nghệ, sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp hiện còn mang tính thời vụ, không liên tục; trang thiết bị, cơ sở vật chất, mặt bằng để tiếp thu, triển khai công nghệ, sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp còn rất thiếu thốn, lạc hậu và không đồng bộ, điều này làm hạn chế rất nhiều đến hoạt động triển khai, nhất là tham gia triển khai công nghệ mới.
Doanh nghiệp phải tập trung tiếp thu khoa học, công nghệ và ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao cải tiến năng lực công nghệ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao có thể đứng vững và cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, tích cực xây dựng, ban hành các nghị định và thông tư nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, minh bạch về quản lý ngoại hối để hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, kể từ khi gia nhập WTO, chính sách quản lý ngoại hối được áp dụng tương đối thông thoáng, nhằm ưu tiên thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Đứng trước những lợi ích mà đầu tư nước ngoài đem lại thì cũng sẽ có những khó khăn nhất định đối với nền kinh tế đang hiện hữu ngày nay. Vì vậy Việt Nam cũng cần có những giải pháp đồng bộ để thu hút vốn đầu tư một cách hiệu quả:
Thứ nhất, để có thể tiếp nhận được chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả từ các doanh nghiệp nước ngoài thì cần tập trung sách đánh giá, xem xét kỹ từng công đoạn trong chu trình đầu tư – kinh doanh của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (từ xúc tiến đầu tư, thẩm định cấp phép, quản lý sau cấp phép) để làm rõ vì sao ở từng khâu còn có các tồn tại như mất cân đối trong tỷ lệ những nhà đầu tư tiềm năng, cấp phép chưa phù hợp quy hoạch, dự án chậm triển khai (dự án treo), gây ô nhiễm môi trường, doanh nghiệp bỏ trốn, qua đó đưa ra các giải pháp để các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lộ trình chuyển giao công nghệ.
Thứ hai, cần đổi mới thể chế, thay thế chính sách ưu đãi dựa trên lợi nhuận bằng chính sách ưu đãi dựa trên hiệu quả. Cần xem xét lại toàn bộ khung chính sách ưu đãi đầu tư hiện tại và tái thiết lập sự cân bằng giữa các chính sách ưu đãi dựa trên lợi nhuận với ưu đãi dựa trên hiệu quả và đổi mới mô hình tăng trưởng. Theo đó, cần chuyển các quy định tương ứng về ưu đãi từ Luật Đầu tư, Luật Đất đai sang Luật Thuế và Luật Hải quan, Luật chuyển giao công nghệ… với sự hỗ trợ của một hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào chính sách miễn thuế có thời hạn, miễn thuế có thời hạn một phần cũng như các chế độ thuế suất ưu đãi và miễn thuế nhập khẩu để thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, cần gắn hoạt động chuyển giao công nghệ với việc nâng cao năng lực công nghệ, phát triển giáo dục – đào tạo, đẩy mạnh sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ. Việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ cần được thực hiện đồng bộ, tương thích và có lộ trình, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ.
Thứ tư, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, cho phép thành lập công ty quản lý vốn, thành lập mô hình kinh tế mở. Cần có chính sách và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư nhân liên doanh với nước ngoài; đẩy nhanh việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổng kết kinh nghiệm rồi tiến tới thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có thể huy động được nhiều nguồn vốn với mọi loại quy mô vốn cho sự phát triển nền kinh tế.