Hiện nay, cụm từ “lối đi chung” và “lối đi qua” được sử dụng khá phổ biến trong đời sống. Tuy nhiên, hai cách gọi này có đồng nhất hay không? Có sự khác biệt gì không? Cùng LawFirm.Vn tìm hiểu qua bài viết này.
1. Khái niệm lối đi chung, lối đi qua
1.1. Lối đi chung là gì?
Pháp luật hiện nay không có quy định hoặc giải thích thế nào là lối đi chung. Trên thực tế, lối đi chung được xác định dựa trên một số căn cứ sau:
– Lối đi chung được hình thành từ lối mòn, sử dụng lâu năm;
– Lối đi chung được người sử dụng đất phía ngoài tự dành ra hoặc theo thỏa thuận hoặc chuyển nhượng cho người phía trong để có lối ra đường công cộng (giống với lối đi qua).
– Lối đi chung do các chủ sử dụng đất cắt một phần đất của mình tạo nên, đồng thời lối đi chung tạo thành ranh giới sử dụng đất giữa các thửa đất liền kề (thường gọi là đường đi chung hoặc ngõ đi chung).
Mặc dù nguồn gốc, thời gian hình thành có thể khác nhau nhưng tựu chung lại lối đi chung vẫn được hiểu theo trường hợp phổ biến nhất, đó là: Lối đi chung là phần diện tích đất được cắt ra để các chủ sử dụng đất sử dụng làm lối đi ra đường giao thông công cộng.
1.2. Lối đi qua là gì?
Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về lối đi qua và quyền về lối đi qua tại Điều 245, cụ thể:
Điều 254. Quyền về lối đi qua
1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo đó, lối đi qua là lối đi trên bất động sản của người khác do chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc và chủ sở hữu bất động sản vây bọc thỏa thuận hoặc theo bản án của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền.
2. Phân biệt lối đi chung và lối đi qua
Lưu ý: Do pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về lối đi chung nên bảng phân biệt dưới đây dùng để phân biệt giữa lối đi qua và trường hợp lối đi chung do các bên cắt một phần đất của mình tạo thành lối đi để sử dụng chung.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp không thể lấy quy định quyền về lối đi qua áp dụng để giải quyết tranh chấp về lối đi chung, thay vào đó phải áp dụng quy định giải quyết tranh chấp đất đai.
Tiêu chí | Lối đi chung | Lối đi qua |
Nguồn gốc | Do các bên cắt một phần đất của mình để tạo thành lối đi chung | – Do các bên thỏa thuận; – Do Tòa án, cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền quyết định trong trường hợp có tranh chấp; |
Đền bù | Lối đi chung thường không có đền bù vì do các bên góp đất tạo thành lối đi để sử dụng chung | – Chủ bất động sản bị vây bọc phải đền bù cho chủ bất động sản vây bọc khi yêu cầu mở lối đi qua bất động sản của họ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. – Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong mà không có đền bù. |
Đất mở lối đi | Do các bên thỏa thuận nhưng thông thường là ranh giới thửa đất của các bên hoặc lối mòn đã sử dụng nhiều năm | Vị trí lối đi qua nằm trên bất động sản vị vây bọc (mở lối đi qua đất của người khác). |
Đăng ký | Không bắt buộc phải đăng ký. Trường hợp sử dụng nhiều năm mà tạo thành lối đi chung có thể được đo vẽ và thể hiện trong bản đồ địa chính. Ngoài ra, lối đi chung cũng có thể tạo thành ranh giới giữa các bất động sản liền kề (tạo thành ranh giới khi tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp) | Phải đăng ký với cơ quan đăng ký đất đai để ghi vào sổ địa chính (theo điểm l khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai 2013) |
Người hưởng quyền | Các bên đều được hưởng quyền (vì là lối đi chung) | Chủ bất động sản bị vây bọc (được hưởng quyền hạn chế đối với bất động của người khác) |