1. Khái niệm về ngành luật đất đai
Ngành luật đất đai được định nghĩa là: “Tổng hợp các quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành nhằm thiết lập quan hệ đất đai trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và sự bảo hộ đầy đủ của Nhà nước đối với các quyền của người sử dụng đất tạo thành một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, đó là nghành luật đất đai”.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh luật đất đai
2.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật đất đai là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đất đai. Đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai.
– Các quan hệ xã hội do nghành Luật đất đai điều chỉnh hết sức đa dạng và có thể được phân thành các nhóm như sau:
+ Nhóm 1: Các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình sở hữu, quản lý nhà nước đối với đất đai
Trong nhóm quan hệ này, khi nhà nước tham gia với tư cách là người quản lý thì địa vị pháp lý các bên không bình đẳng với nhau. Một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền ra các quyết định buộc các chủ thể khác phải thực hiện. Do đó, phương pháp điều chỉnh tương ứng với nhóm quan hệ này sẽ là phương pháp mệnh lệnh là chủ yếu.
+ Nhóm 2: Các quan hệ xã hội phát sinh đối với các chủ thể sử dụng đất và các loại đất được phép sử dụng
Theo quy định tại Điều 9 Luật Đất đai 2013, chủ thể sử dụng đất bao gồm nhiều đối tượng khác nhau và hình thức sử dụng đất cũng rất đa dạng. Bởi vậy, việc phân nhóm căn cứ vào từng đối tượng cụ thể:
Thứ nhất, các quan hệ phát sinh đối với tổ chức trong nước khi được Nhà nước cho phép sử dụng đất. Ví dụ: quan hệ về nộp thuế cho nhà nước, các hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất…
Thứ hai, các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình sử dụng đất của tổ chức cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ví dụ: hoạt động thuê đất…
Thứ ba, các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người sử dụng đất.
Thứ tư, các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng các nhóm đất nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.

2.2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật đất đai là cách thức mà Nhà nước dùng pháp luật tác động vào các quan hệ đất đai nhằm hướng các quan hệ này phát sinh, thay đổi và chấm dứt phù hợp với mong muốn của Nhà nước.
Phương pháp điều chỉnh của Luật đất đai phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội do Luật đất đai điều chỉnh. Luật đất đai sử dụng hai phương pháp điều chỉnh, đó là:
2.2.1. Phương pháp hành chính – mệnh lệnh
Phương pháp này dùng để điều chỉnh các quan hệ giữa một bên là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhân danh Nhà nước và một bên là các chủ thể khác có liên quan. Đặc điểm của phương pháp này thể hiện ở chỗ, các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai không có sự bình đẳng về địa vị pháp lý. Vì vậy, các quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có tính bắt buộc thi hành đối với các chủ thể có liên quan. Nếu không thực hiện được coi là hành vi vi phạm pháp luật đất đai và bị cưỡng chế theo luật định.
2.2.2. Phương pháp bình đẳng thỏa thuận
Đây là phương pháp rất đặc trưng của nghành Luật dân sự, Luật đất đai cũng sử dụng phương pháp này. Đặc điểm cơ bản của phương pháp bình đẳng thỏa thuận trong luật đất đai là các chủ thể có quyền tự do giao kết, thực hiện các giao dịch dân sự về đất đai phù hợp với quy định của pháp luật, góp phần đáp ứng các nhu cầu sử dụng đất vì lợi ích các chủ thể đồng thời tạo lập xu hướng tập trung, tích tụ đất đai ở quy mô hợp lý nhằm phân công lại lao động, đất đai thúc đẩy sản xuất phát triển.