Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh theo Bộ luật Hình sự
1. Biện pháp tư pháp là gì?
Để có thể hiểu rõ, nắm bắt các quy định của Luật hình sự về các Biện pháp tư pháp, trước tiên chúng ta cần đưa ra khái niệm biện pháp tư pháp là gì? Nó có đặc điểm như thể nào? Xét quy định của Luật hình sự từ Bộ luật năm 1985 cho đến nay, các nhà lập pháp không đưa ra khái niệm cụ thể mà chỉ đi thẳng vào vấn đề là quy định từng biện pháp tư pháp. Mặc dù không quy định nhưng thông qua từng biện pháp cụ thể, chúng ta có thể khái quát như sau: Biện pháp tư pháp là một chế tài được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, áp dụng đối với người phạm tội hoặc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm ngăn chặn họ tiếp tục thực hiện hành vi.
Thông qua khái niệm này, chúng ta đưa ra được đặc điểm của biện pháp tư pháp như sau:
– Chủ thể thực hiện: Vì đây là các biện pháp mang tính cưỡng chế nên chỉ có các Cơ quan tiến hành tố tụng mới có thẩm quyền áp dụng mà không có bất kỳ cơ quan, cá nhân nào được tùy nghi áp dụng.
– Đối tượng bị áp dụng: Là người phạm tội hoặc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
– Mục đích: Ngăn chặn việc tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có quan điểm cho rằng việc áp dụng biện pháp tư pháp còn có mục đích giáo dục người bị áp dụng trở thành công dân có ích cho xã hội hay nói cách khác giúp họ nhận thức được sai lầm của mình. Xuyên suốt Bộ luật hình sự qua các thời kỳ thì chức năng của nó vẫn không thay đổi đó là trừng phạt và giáo dục người phạm tội. Tuy nhiên theo nhận định của tác giả, việc áp dụng các biện pháp tư pháp chưa thực sự làm nổi bật được chức năng giáo dục như một số quan điểm đã nêu vì các biện pháp này chủ yếu tác động đến vật, tiền hoặc các lợi ích có được từ việc phạm tội nên ý nghĩa giáo dục của nó cũng bị lu mờ.
2. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh theo Bộ luật Hình sự
Bắt buộc chữa bệnh là một trong những biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 49 Bộ luật Hình sự 2015.
Đây là quy định mà pháp luật dự liệu các trường hợp người phạm tội bị bắt buộc chữa bệnh, đồng thời nó còn thể hiện tính chất nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Cho dù người phạm tội có thực hiện hành vi nguy hiểm như thế nào đối với xã hội, gây ra hậu quả ra sao, xâm phạm bao nhiêu quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ thì khi có cơ sở xác định người phạm tội mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì yêu cầu tiên quyết được đặt ra là áp dụng biện pháp tư pháp “bắt buộc chữa bênh” đối với người phạm tội. Trường hợp người phạm tội bị bắt buộc chữa bệnh có thể xảy ra tại bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình điều tra, truy tố xét xử.
Trường hợp 1: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh được quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể là “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Đây là trường hợp mà một người trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì bản thân họ đã bị các bệnh nêu trên, nếu không bị bệnh thì chắc chắn hành vi này đã không xảy ra trên thực tế vì khi đó họ có đầy đủ nhận thức để điều khiển hành vi của mình như thế nào cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và quy định của pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật này đã quy định rất rõ các yếu tố cấu thành tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”. Vì mắc các bệnh được quy định tại Điều 21 Bộ luật này mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi hay nói cách khác họ hoàn toàn không có năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy mà các đối tượng này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi mà họ thực hiện không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Và trong trường hợp này, Viện Kiểm Sát hoặc Tòa án căn cứ trên kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần mà ra quyết định đưa những người này điều trị bắt buộc tại một cơ sở điều trị chuyên khoa.
Trường hợp 2: Khác với trường hợp 1, đây là trường hợp mà người phạm tội mắc bệnh khi đang trong giai đoạn “sau khi thực hiện hành vi phạm tội đến trước khi bị kết án”. Mặc dù cũng mắc bệnh dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nhưng những người này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội danh do mình thực hiện. Vì đang trong tình trạng không còn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi nên không thể tiếp tục buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự mà trách nhiệm này sẽ bị gián đoạn cho đến khi người phạm tội khỏi bệnh.
Tương tự trường hợp 1, Tòa án sẽ căn cứ theo kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần mà ra quyết định buộc người phạm tội phải chữa trị tại một cơ sở điều trị chuyên khoa.
Trường hợp 3: Đang chấp hành hình phạt tù
Đây là trường hợp mà người phạm tội bị mắc bệnh trong khi đang chấp hành hình phạt tù, việc mắc bệnh này dẫn đến làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội. Vì vậy khi có quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì thời hạn chấp hành hình phạt tù tạm thời ngưng cho đến khi người phạm tội được điều trị khỏi bệnh. Trừ trường hợp có lý do được miễn chấp hành hình phạt, nếu không người phạm tội vẫn phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù trong thời hạn còn lại.
Đối với trường hợp này, pháp luật quy định thời hạn bắt buộc áp dụng biện pháp chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt. Điều này có nghĩa thời hạn chữa bệnh bao lâu thì được trừ vào thời hạn hình phạt tù còn lại, nếu khi khỏi bệnh mà thời gian điều trị bằng hoặc dài hơn phần thời hạn còn lại thì người phạm tội không phải tiếp tục chấp hành hình phạt nữa.
Cả ba trường hợp áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh nêu trên đều phải đảm bảo vấn đề người phạm tội chỉ khi nào điều trị khỏi bệnh thì mới tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt tù còn lại. Việc bệnh của người phạm tội chỉ mới dừng ở mức thuyên giảm, chưa khỏi thì không đủ cơ sở để tiếp tục truy cứu hoặc áp dụng hình phạt.
3. Tải file Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 (hợp nhất năm 2017) – Phần chung
Tải về: Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 (hợp nhất năm 2017) – Phần chung