1. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc là gì?
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo quy định này thì di chúc phải có các yếu tố sau:
– Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác;
– Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác;
– Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế (cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản…
2. Người lập di chúc
Người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người trong di chúc và cho họ hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình.
Nếu trong di chúc có nhiều người thì việc phân chia cho mỗi người được hưởng bao nhiêu phụ thuộc vào ý chí của người có tài sản. Người có tài sản thể hiện ý chí của mình nhưng ý chí đó có được thực hiện hay không phụ thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí.
Người lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi, có các quyền sau đây:
2.1. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Người được nhận di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật hoặc cũng có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội...
Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật (như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột…) mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình.
2.2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế
Phân định di sản cho người thừa kế trong trường hợp có nhiều người cùng được thừa kế. Người lập di chúc có quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau và không cần phải nêu lý do. Nếu không phân định di sản trong di chúc thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc.
2.3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng
Xem mục 7 và 8 bài viết này.
2.4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế (như giao cho người thừa kế được hưởng một căn nhà nhưng phải để lại cho một người bạn thân bị tàn tật mà trước đây vẫn sống nương nhờ vào người để lại di sản được ở một phần căn nhà đó cho đến khi người này chết hoặc giao cho người thừa kế phải trả một món nợ Nhà nước mà người để lại di sản chưa trả…).
Người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho một người mà không cho họ hưởng di sản. Trường hợp này không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu giao nghĩa vụ và cho hưởng di sản thì người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được hưởng đó.
2.5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lýdi sản, người phân chia di sản
BLDS quy định người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Việc chỉ định người giữ di chúc, người quản lýdi sản, người phân chia di sản là hoàn toàn theo ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cử một người vừa giữ di chúc, đồng thời vừa quản lý di sản và phân chia di sản. Những người lập di chúc vẫn có thể cử nhiều người, mỗi người làm một việc riêng (như: cử ông A giữ di chúc, anh B quản lýtài sản, bà C phân chia tài sản...).
Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, người được chỉ định có thực hiện hay không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lý mà nó biểu hiện tinh thần tự nguyện, đoàn kết giúp đỡ người khác.
3. Người thừa kế theo di chúc
Người nhận di sản thừa kế (người được chỉ định trong di chúc) là những người có quyền nhận di sản do người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc.
Người thừa kế theo di chúc có thể là người trong hàng thừa kế, ngoài hàng thừa kế hoặc cơ quan, tổ chức kể cả Nhà nước. Tuy nhiên, người thừa kế theo di chúc cũng cần phải có những điều kiện như quy định ở Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể là: Nếu người được chỉ định làm thừa kế là cá nhân thì người đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, vì chỉ có những người còn sống thì mới có năng lực pháp luật dân sự để hưởng quyền. Tuy nhiên, người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì họ vẫn là người thừa kế theo di chúc của người để lại di sản.
Trường hợp người thừa kế theo di chúc là pháp nhân phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, vì nếu pháp nhân chấm dứt hoạt động trước thời điểm mở thừa kế thì năng lực chủ thể của pháp nhân cũng chấm dứt, cho nên không còn tư cách hưởng di sản. Các trường hợp trên cần chú ý một số vấn đề sau:
– Đối với người thừa kế là thai nhi. Nếu người lập di chúc để lại di sản cho người đã thành thai là con của cha, mẹ được xác định tên cụ thể thì khi người đó sinh ra và còn sống phải là con của người cha, mẹ đã được xác định trong di chúc.
Nếu người để lại di sản không nói rõ trong di chúc tên cha của người đã thành thai thì chỉ cần xác định mẹ của người đã thành thai khi người để lại di sản chết. Còn cha của người đó là ai không ảnh hưởng đến việc xác định người đó là người thừa kế của người để lại di sản (như trường hợp người không có chồng mà có con).
– Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, cho nên pháp nhân cần phải có năng lực chủ thể, tức là có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Nếu pháp nhân còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế và thời điểm chia di sản thì pháp nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc. Nếu pháp nhân còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nhưng không còn tồn tại vào thời điểm chia di sản (trong thời hiệu thừa kế) thì cần phải áp dụng các thủ tục tố tụng dân sự theo quy định để bảo vệ quyền lợi của pháp nhân.

4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Pháp luật quy định người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng di sản hoặc không cho người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015. Pháp luật quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc gồm: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, những người này phải được hưởng 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật nếu bố, mẹ không cho hưởng hoặc cho hưởng nhưng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật.
Cách tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật cho người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc xác định như sau:
– Nếu không có di chúc, thì một suất được chia theo pháp luật cho người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng là bao nhiêu nhân với hai phần ba của suất đó.
– Những người sau đây không tính vào để nhân suất hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật: Người không có quyền hưởng theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015; Người từ chối quyền hưởng theo quy định tại Điều 620 BLDS; người thừa kế theo pháp luật trong hàng được hưởng như đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản mà không có trường hợp thừa kế thế vị.
Ví dụ 1: A là chồng của B, có hai người con chung là C, D (đã thành niên). A và C chết cùng một thời điểm. Á để lại di chúc truất quyền thừa kế của B và cho D toàn bộ di sản. B được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Di sản của A có 90 triệu đồng. Vậy B hưởng là 90 triệu đồng chia cho hai suất nhân với hai phần ba của một suất và được hưởng 30 triệu đồng; D hưởng theo di chúc được là 60 triệu đồng.
Ví dụ 2: Cũng theo sự kiện trên, nhưng C có con là E, thì B được hưởng là 90 triệu chia cho 3 suất nhân với (x) 2/3 = 20 triệu; D được 70 triệu theo di chúc.
5. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương thể hiện ý chí của người lập di chúc, do đó để di chúc có hiệu lực pháp luật thì phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung còn phải tuân thủ các điều kiện để được coi là di chúc hợp pháp. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc bao gồm:
5.1. Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể
Người lập di chúc là người từ đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc.
Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Vì vậy, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, thành phần... người từ đủ 18 tuổi đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế. .
Tuy nhiên, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi (người có năng lực hành vi một phần) có thể lập di chúc nhưng với điều kiện “phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc” (khoản 2 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015). Sự đồng ý ở đây là sự đồng ý cho họ lập di chúc. Còn về nội dung di chúc, họ được toàn quyền quyết định.
5.2. Người lập di chúc tự nguyện
Người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Tự nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan – mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống nhất giữa mong muốn bên trong và việc thể hiện ra bên ngoài làm mất đi tính tự nguyện của người lập di chúc. Sự thống nhất này có thể bị phá vỡ trong những trường hợp người lập di chúc bị cưỡng ép, đe doạ hoặc di chúc do họ lập trên cơ sở bị lừa dối.
Cưỡng ép có thể là sự cưỡng ép về thể chất (đánh đập, giam giữ...) hoặc về tinh thần (như doạ làm một việc có thể làm mất danh dự, uy tín của người lập di chúc…). Người lập di chúc có thể bị lừa dối bằng những thủ đoạn như: Làm tài liệu giả để cho người có tài sản tin rằng một người đã chết hoặc đã mất tích nên không lập di chúc để lại di sản cho người đó mà để lại di sản cho người làm tài liệu giả v.v..
5.3. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di sản thừa kế... Ý chí của người lập di chúc phải phù hợp với các quy định của Nhà nước và không trái với đạo đức xã hội, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định Điều 3 BLDS.
5.4. Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật
Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung của di chúc); là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định. Pháp luật quy định có hai loại: 1) Hình thức văn bản: Là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết (viết tay, đánh máy, in) có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 2) Hình thức miệng: Toàn bộ ý chí của người lập di chúc thể hiện bằng lời nói.
5.4.1. Di chúc miệng
Di chúc miệng (hay còn gọi là chúc ngôn) là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi mình chết.
Di chúc miệng chỉ được công nhận là hợp pháp khi người lập di chúc ở trong tình trạng tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được (bị bệnh sắp chết, bị tai nạn có nguy cơ chết...). Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng (khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015). Sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng nếu người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng huỷ bỏ (khoản 2 Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015).
5.4.2. Di chúc bằng văn bản
Hình thức di chúc bằng văn bản gồm các loại sau:
+ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (khoản 1 Điều 628 BLDS).
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (khoản 2 Điều 628 BLDS).
+ Di chúc bằng văn bản có công chứng (khoản 3 Điều 628 BLDS).
+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực (khoản 4 Điều 628 BLDS).
Ngoài ra, theo Điều 638 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thì di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, bao gồm:
+ Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực;
+ Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
+ Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
+ Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
+ Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó;
+ Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Thực tế cho thấy không phải bao giờ công dân cũng có điều kiện để lập di chúc viết, trong trường hợp đó pháp luật cho phép lập di chúc miệng. Tương tự như vậy, vì thiếu điều kiện khách quan, chủ quan mà công dân không thể lập di chúc bằng văn bản có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Họ lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng vẫn được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện ở mục a, b, c, d của phần này. Trong thực tế có nhiều trường hợp do người lập di chúc không am hiểu pháp luật hoặc có nhiều lý do khác nhau mà họ không thể đến cơ quan công chứng, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn để làm thủ tục chứng nhận. Do đó, pháp luật vẫn công nhận di chúc không có chứng nhận, chứng thực là di chúc hợp pháp nếu người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
6. Hiệu lực pháp luật của di chúc
Hiệu lực pháp luật của di chúc là giá trị pháp lý của di chúc được thực hiện trên thực tế theo đúng nội dung của di chúc, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
– Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
– Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
– Di chúc không có hiệu lực pháp luật nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
– Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
– Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
7. Di sản dùng vào việc thờ cúng
Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:
“1. Trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”.
Vấn đề đặt ra: Thế nào là một phần di sản, vấn đề này có thể được giải thích dựa vào lịch sử lập pháp và theo tư duy logic:
– Theo pháp luật dân sự của các nhà nước phong kiến Việt Nam, như Bộ luật Hồng Đức, hương hỏa là 1/20 điền sản, theo Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936, hương hỏa là 1/5 điền sản (ruộng đất). Hương hỏa được giao cho thôn trưởng quản lý dùng vào việc phụng tự. Như vậy, hương hoả chỉ là một phần nhỏ điền sản của người chết để lại cho cháu, con để sử dụng, thu hoa lợi dùng vào việc thờ cúng.
Theo tư duy logic, nếu khối di sản được chia thành 2 hay nhiều phần thì chỉ được dùng một phần đó để thờ cúng, phần còn lại chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp này tuy người lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng nhưng trong di chúc vẫn xác định rõ dành một phần di sản cho việc thờ cúng (như một khoản tiền, một gian nhà...) thì những người thừa kế vẫn phải cử một người để quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
“2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.
Quy định này để bảo vệ quyền lợi cho người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Thờ cúng là một nếp sống văn hoá lâu đời của nhân dân ta, thể hiện lòng tôn kính đối với người đã chết, giáo dục người xung quanh kính trọng những người bậc trên đã chết và nhớ công ơn của họ. Vì vậy, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các truyền thống tốt đẹp đó, cho phép cá nhân dành một phần tài sản của mình để dùng vào việc thờ cúng. Phần tài sản này không coi là di sản thừa kế.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý. Di sản này có thể là một tài sản cụ thể (cây lâu năm, nhà ở…). Nếu là tài sản hoặc cây lâu năm, người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc thờ cúng. Người quản lý không được sử dụng vào mục đích của riêng mình. Không có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa thuận giao cho người khác quản lý.
Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định về tính chất của di sản dùng vào việc thờ cúng (không định tính) mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy, người lập di chúc có thể định đoạt bất kì tài sản nào trong khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để dùng vào việc thờ cúng.
Quy định này để bảo vệ cho người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
8. Di tặng
Di tặng là một phần (hiểu như di sản thờ cúng) tài sản mà người lập di chúc tặng cho người khác với một ý nghĩa kỉ niệm. Với ý nghĩa đó, giữa người lập di chúc và người được hưởng tài sản có một quan hệ thân thiết nhất định. Người có tài sản muốn giữ tình cảm tốt đẹp đó bằng cách tặng một “món quà” làm kỉ niệm. Người được hưởng tài sản di tặng có quyền sử hữu với phần tài sản đó mà không phải gánh chịu nghĩa vụ của người chết để lại. Trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán các nghĩa vụ, phần tài sản thuộc di tặng được dùng để thực hiện nghĩa vụ còn lại của người đã chết.