Để giải quyết một vụ việc của tư pháp quốc tế thì vấn đề áp dụng luật luôn là một trong những vấn đề phức tạp, khó khăn cần phải thực hiện. Thứ tự áp dụng pháp luật như thế nào cũng là một câu hỏi cần có lời giải thoả đáng. Thứ tự áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ việc tư pháp quốc tế có thể chia làm hai trường hợp:
1. Đối với các vụ việc tư pháp quốc tế thông thường
– Áp dụng pháp luật theo quy định của điều ước quốc tế: Trước hết các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, để lựa chọn quy phạm thực chất thống nhất, nếu có loại quy phạm này thì cơ quan áp dụng pháp luật sẽ áp dụng quy phạm đó. Trường hợp điều ước quốc tế không có quy phạm thực chất thống nhất thì lúc này quy phạm xung đột thống nhất sẽ được tìm kiếm. Nếu có loại quy phạm này nó sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ.
Nếu quy phạm xung đột thống nhất quy định cho phép các bên tham gia quan hệ được phép lựa chọn pháp luật áp dụng (quy định hệ thuộc luật lựa chọn – Lex voluntatis) và các bên đã lựa chọn được pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Ở đây các bên có thể chọn không chỉ pháp luật của một quốc gia nhất định mà còn có thể lựa chọn tập quán để áp dụng cho quan hệ của mình. Nếu quy phạm xung đột thống nhất không quy định hệ thuộc luật lựa chọn hoặc có quy định nhưng các bên không lựa chọn thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật mà quy phạm xung đột thống nhất đã ấn định.
– Áp dụng pháp luật theo quy định của pháp luật quốc gia: Nếu không có điều ước quốc tế thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật trong nước của quốc gia mình để giải quyết vụ việc. Cụ thể, các quy phạm thực chất thông thường sẽ được rà soát, lưu ý ở đây là các quy phạm thực chất của tư pháp quốc tế tức là các quy phạm quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ có yếu tố nước ngoài và do nhà nước ban hành, quy phạm này khác so với quy phạm của các ngành luật trong nước.
Khi pháp luật quốc gia không có các quy phạm thực chất thông thường như trên thì lúc này các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy phạm xung đột thông thường. Các quy phạm này hiện nay nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau nhưng một trong những văn bản tập trung nhiều nhất các quy phạm loại này chính là Bộ luật dân sự 2015 (Phần thứ năm), ngoài ra còn có trong các văn bản khác như Luật hôn nhân gia đình 2014, Luật nuôi con nuôi 2010… Các quy phạm này sẽ quy định các hệ thuộc luật phù hợp để điều chỉnh các quan hệ liên quan.

Một lần nữa, giống như quy phạm xung đột thống nhất nằm trong điều ước quốc tế, quy phạm xung đột thông thường có thể được xây dựng theo hướng tích hợp nhiều hệ thuộc luật và trong số các hệ thuộc luật đó có hệ thuộc luật lựa chọn – Lex voluntatis. Khi đó các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ của họ và cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật đã được các bên chọn ra. Nếu các bên không chọn hoặc quy phạm xung đột thông thường không có hệ thuộc Lex voluntatis thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật theo các hệ thuộc luật mà quy phạm xung đột đã quy định.
– Áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất: Mặc dù rất hãn hữu nhưng nếu xảy ra trường hợp các bên không chọn luật áp dụng, điều ước quốc tế không quy định, pháp luật quốc gia không quy định thì trong trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào khoản 3 Điều 664 Bộ luật dân sự 2015 để chọn luật áp dụng: “Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó”. Để xác định thế nào là luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất, cơ quan có thẩm quyền sẽ tùy từng trường hợp cụ thể, thậm chí căn cứ vào các quy định tại phần chung của Bộ luật dân sự 2015 thì lúc này cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật nếu thấy phù hợp.
Có thể tóm tắt lại thứ tự áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc tư pháp quốc tế như sau:
Bước 1: áp dụng quy phạm thực chất thống nhất.
Bước 2: áp dụng quy phạm xung đột thống nhất (nếu được chọn luật thì áp dụng luật lựa chọn trước. Nếu không sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm).
Bước 3: áp dụng quy phạm thực chất thông thường.
Bước 4: áp dụng quy phạm xung đột thông thường (nếu được chọn luật thì áp dụng luật lựa chọn trước. Nếu không sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm).
Bước 5: áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất (có thể cả tập quán hoặc tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng).
Cần lưu ý các bước sau chỉ được áp dụng khi các bước trước không thể thực hiện được.
2. Đối với các quan hệ tư pháp quốc tế đặc biệt
Một số quan hệ pháp luật mặc dù là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài nhưng khi phát sinh không phát sinh xung đột pháp luật, do có những đặc thù trong đối tượng điều chỉnh (ví dụ, các quan hệ sở hữu trí tuệ). Đối với các quan hệ này khi nảy sinh, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên để điều chỉnh, thông thường các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này chủ yếu bao gồm các quy phạm thực chất thống nhất, và do đó các quy phạm này sẽ được áp dụng trực tiếp để điều chỉnh quan hệ đang xem xét.
Nếu không có các điều ước quốc tế, hoặc đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước (ví dụ, vụ việc liên quan đến quốc gia chưa tham gia điều ước) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật quốc gia, cụ thể là các quy định trong Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản liên quan.
Trường hợp đặc biệt khác, khi chủ thể tham gia quan hệ là nhà nước, nếu xảy ra trường hợp này, khi nhà nước thực hiện quyền miễn trừ nhà nước thì quan hệ sẽ chấm dứt. Nếu nhà nước từ bỏ quyền miễn trừ thì trình tự áp dụng pháp luật quay lại như các quan hệ thông thường.