Để xã hội phát triển thì phải ổn định được các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này phải được giải quyết kịp thời, nếu để lâu, mâu thuẫn phát triển, việc giải quyết sẽ khó khăn hơn.
Vì vậy, ngoài việc quy định thời hạn tố tụng, pháp luật còn quy định cả thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu yêu cầu là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.
Việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu cũng có ý nghĩa rất lớn như thời hạn tố tụng. Trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thời hiệu xác định rõ thời hạn chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền yêu cầu toà án bảo vệ, bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận tiện, đúng đắn. Đối với kinh tế – xã hội, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu còn hạn chế được việc lạm dụng quyền khởi kiện, yêu cầu toà án bảo vệ góp phần ổn định các quan hệ xã hội, bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát triển lành mạnh.

Hiện nay, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu toà án giải quyết đối với vụ việc dân sự được quy định tại các điều 154, 155, 156 và 157 BLDS, các điều 184 và 185 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra, còn được quy định tại Điều 167 BLLĐ, Điều 319 LTM, Điều 30 Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 97 Luật hàng hải v.v.. Theo đó, đối với mỗi vụ việc dân sự nói chung, pháp luật đều quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu toà án giải quyết các vụ việc dân sự trong các trường hợp cụ thể dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào tính chất của mỗi loại quan hệ pháp luật tranh chấp, toà án phải giải quyết trong vụ án dân sự hay loại việc dân sự được toà án giải quyết. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể trong một số loại vụ việc, Điều 155 BLDS năm 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong những trường hợp sau:
– Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản;
– Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định khác;
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai;
– Trường hợp khác do luật quy định. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 154 BLDS năm 2015). Tuy vậy, trong một số trường hợp cụ thể, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự có thể được tính bắt đầu từ một sự kiện pháp lý khác như thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án tuyên bố một số giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, cưỡng ép tính từ ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép; (Điều 132 BLDS năm 2015), thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế được tính từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015) vv..
Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 154 BLDS năm 2015). Ngày phát sinh quyền yêu cầu là ngày người có quyền yêu cầu được yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự. Tuỳ từng loại việc mà pháp luật quy định thời điểm đương sự được yêu cầu toà án giải quyết việc dân sự khác nhau như thời điểm phát sinh quyền yêu cầu toà án công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài là thời điểm bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài có hiệu lực thi hành (Điều 432 và Điều 444 BLTTDS năm 2015); thời điểm phát sinh quyền yêu cầu toà án xem xét lại quyết định của trọng tài là ngày nhận được quyết định của hội đồng trọng tài (Điều 69 LTTTM) v.v..
Trên thực tế, do những nguyên nhân khác nhau mà việc khởi kiện, yêu cầu có thể không thực hiện được trong thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Để bảo đảm quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, pháp luật quy định đối với các trường hợp thời gian bị gián đoạn do xảy ra sự kiện bất khả kháng; khách quan, người có quyền khởi kiện, có quyền yêu cầu chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa có người đại diện, người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết nhưng chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lí do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được thì không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu (Điều 156 BLDS năm 2015).
Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu cũng có thể được bắt đầu lại khi xảy ra những sự kiện pháp lí nhất định. Khi thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được bắt đầu lại thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được tính lại từ đầu, thời gian trước khi xảy ra sự kiện không được tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu nữa. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được bắt đầu lại trong trường hợp bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; các bên đã tự hoà giải với nhau (Điều 157 BLDS năm 2015). Trong các trường hợp thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được bắt đầu lại thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tính kể từ ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện.