Thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự là thời hạn mà người được thi hành án hoặc người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.
1. Thi hành án dân sự là gì?
Thi hành án dân sự là một khái niệm quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, liên quan đến việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Mặc dù pháp luật hiện tại không đưa ra một định nghĩa chính thức về thi hành án dân sự, nhưng căn cứ theo Điều 1 của Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi năm 2014), thi hành án dân sự có thể hiểu là trình tự, thủ tục thực hiện các bản án, quyết định dân sự, bao gồm:
- Bản án, quyết định dân sự: Các quyết định của Tòa án liên quan đến tranh chấp dân sự.
- Hình phạt tiền và các quyết định liên quan: Bao gồm việc tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, và án phí.
- Quyết định của Tòa án về phá sản: Các quyết định liên quan đến việc giải quyết tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
- Phán quyết của Trọng tài thương mại: Các quyết định của trọng tài trong các tranh chấp thương mại.
2. Thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự là bao lâu?
Thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự là thời hạn mà người được thi hành án hoặc người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 2008, Nghị định 62/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung) quy định thời hiệu thi hành án dân sự như sau:
– Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án) có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
– Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
– Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
+ Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa;
+ Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo hoặc phải thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn; đương sự bị tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn hoặc các trở ngại khách quan khác theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật dân sự.
Như vậy, thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự là 05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày nghĩa vụ đến hạn.