1. Khái niệm, đặc điểm và thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự (TTDS)
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.
Đây là những quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và những người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự và được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mang đầy đủ các đặc điểm của một quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa:
– Là quan hệ có ý chí,
– Xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật;
– Nội dung được cấu thành bởi quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được bảo đảm bằng sự cưỡng chế Nhà nước.
Bên cạnh đó, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự còn có các đặc điểm riêng:
– Tòa án thường là một bên của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Tòa án là chủ thể đặc biệt duy nhất được thực hiện quyền lực Nhà nước để giải quyết vụ việc dân sự, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình Tòa án tham gia vào hầu hết các quan hệ nảy sinh trong tố tụng nên trở thành chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
– Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh, tồn tại trong một thể thống nhất
Tuy trong tố tụng, địa vị pháp lý của các chủ thể khác nhau nhưng hoạt động của các chủ thể đều liên quan đến việc thực hiện mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Vì vậy mỗi hành vi tố tụng của một chủ thể đều liên quan đến nhau, dẫn đến những hậu quả pháp lý đối với nhiều chủ thể khác góp phần tạo nên sự vận động và phát triển của quá trình tố tụng. Chính điều này đã làm cho các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng dân sự gắn kết lại với nhau, tồn tại cùng nhau.

1.2. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Cũng như quan hệ pháp lý khác, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm ba thành phần: khách thể, chủ thể, nội dung.
1.2.1. Khách thể
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, mỗi chủ thể có những nhiệm vụ, mục đích khác nhau: nguyên đơn mong muốn yêu cầu của mình được Tòa án chấp nhận, bị đơn mong muốn Tòa án bác yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án mong muốn giải quyết nhanh chóng và đúng đắn được vụ việc dân sự...
Tuy vậy, mong muốn chung của các chủ thể là làm sao Tòa án có thể giải quyết được yêu cầu của đương sự hay vì việc dân sự để chấm dứt tranh chấp giữa các đương sự. Đây chính là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và là mục đích, mối quan tâm chung của các chủ thể.
Khách thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là đối tượng xem xét của Tòa án do chính yêu cầu của các đương sự đặt ra và mong muốn Tòa án giải quyết. Thực chất khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là quan hệ pháp luật dân sự về nội dung mà Tòa án và các chủ thể khác cùng nhằm vào giải quyết.
Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có điểm khác với khách thể của nhiều quan hệ pháp luật khác ở chỗ lợi ích về vật chất không hoàn toàn chi phối việc tham gia quan hệ của tất cả các chủ thể. Trong nhiều trường hợp, các chi thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự xuất phát tự nghĩa vụ do pháp luật quy định.
1.2.2. Chủ thể
– Chủ thể của quan hệ tố tụng dân sự là những cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, có thể chia thành 3 nhóm:
+ Nhóm thứ nhất bao gồm các chủ thể có nhiệm vụ quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự, tổ chức thi hành án dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án;
+ Nhóm thứ hai bao gồm các chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác như: đương sự, người đại diện của đương sự;
+ Nhóm thứ ba bao gồm các chủ thể tham gia tố tụng để hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự như người làm chứng, người giám định...
1.2.3. Nội dung
Nội dung quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là quyền và các nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
2. Địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
2.1. Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là cơ quan Nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án.
2.1.1. Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hệ thống tổ chức Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, huyện, Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định. Trong đó, chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh, huyện, có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự. Các Tòa án quân sự và Tòa án khác không có thẩm quyền này.
Tòa án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương, tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính, các tòa phúc thẩm và bộ máy giúp việc (Đ18 LTCTAND). Trong đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, và các tòa phúc thẩm là có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban thẩm phán, Tòa án quân sự trung ương, tòa hình sự, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động, tòa hành chính và bộ máy giúp việc (Đ27 LTCTAND). Trong đó, Ủy ban thẩm phán, tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động là có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự.
Tòa án nhân dân cấp huyện không có các tòa chuyên trách mà có: Chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký và bộ máy giúp việc (Đ32 LTCTAND). Các thẩm phán có thể được phân công chuyên trách về từng lĩnh vực.
2.1.2. Viện kiểm sát
Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện chức năng giám sát việc xét xử, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Tuy cũng là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự nhưng Viện kiểm sát không có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các vụ việc dân sự như Tòa án hay tổ chức thi hành án như Cơ quan thi hành án. Viện kiểm sát chi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án kịp thời, đúng pháp luật.
Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cấp tỉnh, cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự (Đ30 LTCVKS). Trong đó chỉ có Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cấp tỉnh, cấp huyện có huyện có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, thi hành án dân sự.
2.1.3. Cơ quan thi hành án
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự (trừ hệ thống tổ chức thi hành án trong quân đội) được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất, gồm có:
– Ở Trung ương: Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp;
– Ở cấp tỉnh: Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Cục Thi hành án dân sự tỉnh) là cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự;
– Ở cấp huyện: Chi cục Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chi cục Thi hành án dân sự huyện) là cơ quan thi hành án dân sự huyện trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tinh.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
Tổng cục Thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự địa phương có tư cách pháp nhân, con dấu hình Quốc huy, trụ sở và tài khoản riêng.
Hệ thống tổ chức thi hành án trong quân đội gồm có:
– Ở Bộ Quốc phòng: Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý thi hành án trực thuộc Bộ Quốc phòng;
– Ở quân khu và tương đương: Phòng Thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là Phòng Thi hành án cấp quân khu) là cơ quan thi hành án trực thuộc quận khu.
Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng, Phòng Thi hành án cấp quân khu có tư cách pháp nhân, con dấu hình Quốc huy, trụ sở và tài khoản riêng.
2.2. Người tiến hành tố tụng dân sự
Người tiến hành tố tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, bao gồm: Chánh án Tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án và chấp hành viên.
– Chánh án Tòa án là người tiến hành tố tụng đứng đầu Tòa án và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án (Đ40 LTCTAND).
– Thẩm phán là người tiến hành tố tụng được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Ð1 PLTP&HTTAND).
Trong tố tụng dân sự, thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự.
Người được bổ nhiệm làm thẩm phán phải có đủ tiêu chuẩn về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sức khỏe quy định Đ37 LTCTAND, ĐS PLTP&HTTAND.
– Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án (Đ1 PLTP&HTTAND).
Hội thẩm nhân dân không phải là người thuộc biên chế của Tòa án mà do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo nhiệm kỳ, hội thẩm nhân dân chỉ tham gia xét xử vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm.
Người được bầu làm hội thẩm nhân dân phải có đủ tiêu chuẩn về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sức khỏe quy định Đ37 LTCTAND, ĐÃ PLTP&HTTAND.
– Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc ghi các biên bản tố tụng.
– Viện trưởng Viện kiểm sát là người tiến hành tố tụng đứng đầu Viện kiểm sát, tổ chức và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.
– Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Đ1 PLKSVKSND).
Người được bổ nhiệm làm kiểm sát viên phải có đủ tiêu chuẩn về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sức khỏe quy định (Đ43 LTCVKSND và Đ2,18,19,20 PLKSVKSND).
– Thủ trưởng cơ quan thi hành án – Chấp hành viên
+ Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao cấp (sau đây gọi chung là Chấp hành viên);
+ Thẩm tra viên thi hành án, Thẩm tra viên chính thi hành án, Thẩm tra viên cao cấp thi hành án (sau đây gọi chung là Thẩm tra viên thi hành án);
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
2.3. Người tham gia tố tụng dân sự
Người tham gia tố tụng dân sự là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án, Cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, bao gồm: đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và người định giá tài sản.
2.3.1. Đương sự
Đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào quan hệ tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự; người yêu cầu, người bị yêu cầu, người có liên quan trong việc dân sự.
– Nguyên đơn: là người khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động.
– Tuy BLTTDS không quy định nhưng theo chúng tôi, người định giá tài sản cần được coi là người tham gia tố tụng vì hoạt động của họ có ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
– Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham gia của bị đơn mang tính bị động.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình để nghi hoặc theo yêu cầu của các hoặc theo yêu cầu của Tòa án tham gia vào vụ án dân sự.
– Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ.
– Người bị yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về các yêu cầu của việc dân sự. Thông thường trong các việc dân sự đều có người bị yêu cầu nhưng trong một số trường hợp chỉ có người yêu cầu mà không có người bị yêu cầu như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, yêu cầu công nhận thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con...
– Người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
* Năng lực chủ thể
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
– Đường sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
– Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
– Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
– Đường sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
– Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.
Thực tiễn xét xử của các Tòa và pháp luật Việt Nam cũng có quy định trường hợp ngoại lệ như người vợ từ đủ 17 tuổi trở lên đến chưa đủ 18 tuổi cũng được coi là có năng lực hành vi tố tụng dân sự trong việc ly hôn...