1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Quá trình thi hành án dân sự từ khi đương sự nộp đơn yêu cầu thi hành án hoặc từ khi toà án chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự đến khi kết thúc thi hành án nảy sinh nhiều quan hệ khác nhau giữa cơ quan thi hành án, toà án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, viện kiểm sát, các đương sự, người đại diện của đương sự và những cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự. Các chủ thể tham gia vào các quan hệ này với những động cơ, mục đích và nhận thức về quyền và nghĩa vụ của họ trong thi hành án khác nhau nên cách xử sự của họ cũng rất khác nhau. Thông thường, những người phải thi hành án đều không muốn thực hiện các nghĩa vụ thi hành án của mình. Ngoài ra, những người khác tham gia vào quá trình thi hành án dân sự, trong đó có cả chấp hành viên, thừa phát lại có khi cũng không thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của họ. Để bảo đảm việc thi hành án dân sự được nhanh chóng và đúng đắn, Nhà nước phải đặt ra các quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự, tức là điều chỉnh nó. Từ đó, các quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại, tòa án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh, viện kiểm sát, các đương sự, người đại diện của đương sự và những cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự và được các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh.
Các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự rất đa dạng và phong phú nên các quan hệ pháp luật thi hành án dân sự cũng đa dạng và phong phú, bao gồm: Các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các đương sự và người đại diện của đương sự, các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các cá nhân, tổ chức liên quan đến việc thi hành án và các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với toà án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và viện kiểm sát được các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh.
1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa, được hình thành, tôn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên cũng có các đặc điểm của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa như là quan hệ có ý chí, xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, nội dung được cấu thành bởi quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ này và việc thực hiện được bảo đảm bằng sự cưỡng chế nhà nước. Tuy vậy, do là quan hệ pháp luật cụ thể, nảy sinh giữa các chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý thi hành án dân sự nên ngoài những đặc điểm chung đó của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa thì quan hệ pháp luật thi hành án dân sự còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, các quan hệ pháp luật thi hành án dân sự phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự và do luật thi hành án dân sự điều chỉnh. Việc thi hành án dân sự làm phát sinh các quan hệ khác nhau giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại, tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, viện kiểm sát, các đương sự và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác liên quan đến việc thi hành án dân sự. Các quan hệ này được các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh nên trở thành quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Do vậy, đối với những quan hệ phát sinh ngoài quá trình thi hành án dân sự thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự nên không trở thành quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, trên thực tế quá trình thi hành án dân sự cũng có thể phát sinh nhiều quan hệ khác như quan hệ giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc công chứng, chứng thực việc uỷ quyền, bản sao giấy tờ liên quan đến việc thi hành án dân sự, việc trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án theo quyết định của toà án vv.. Tuy nhiên, các quan hệ này thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hành chính mà không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự. Các quan hệ này tuy phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhưng không do pháp luật thi hành dân sự điều chỉnh nên không phải là quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
Thứ hai, việc tham gia quan hệ thi hành án của nhiều chủ thể mang tính thụ động, bắt buộc. Kết quả thi hành án dân sự trước hết phụ thuộc vào sự tự nguyện, tự giác của các đương sự và các chủ thể khác. Tuy nhiên, trên thực tế không phải trong trường hợp nào họ cũng tự nguyện, tự giác thi hành án dân sự, đặc biệt là người phải thi hành án. Để bảo đảm hiệu quả thi hành án dân sự, pháp luật thi hành án dân sự quy định một số chủ thể bắt buộc phải tham gia vào quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, việc tham gia của một số chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mang tính thụ động và bắt buộc.
Thứ ba, cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại thường là một bên của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại là chủ thể được giao nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành các bản án, quyết định. Để thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại phải tham gia vào hầu hết các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nên trở thành chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
Thứ tư, trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự các chủ thể khác đều phải phục tùng cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại. Do yêu cầu của công tác thi hành án dân sự và mục đích tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể khác nhau nên pháp luật quy định địa vị pháp lí của các của các chủ thể trong thi hành án dân sự khác nhau và giữa họ không có sự bình đẳng. Cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại là chủ thể pháp luật quy định được thực hiện quyền lực của Nhà nước để tổ chức thi hành án dân sự nên trong thi hành án dân sự, các chủ thể khác đều phải phục tùng và chấp hành quyết định của cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại.

2. Thành phần của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Tính đa dạng của các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự được các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh dẫn đến tính đa dạng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Tuy vậy, không phải bất kì cá nhân, tổ chức nào cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Các chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự phải là những cá nhân, cơ quan, tổ chức đáp ứng được các điều kiện do pháp luật thi hành án dân sự quy định.
Theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự thì các chủ thể được tham gia vào quan hệ pháp luật thi hành án dân sự bao gồm: cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại, tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, viện kiểm sát, đương sự, người đại diện của đương sự và những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự.
Tùy theo mục đích tham gia thi hành án dân sự và vai trò của các chủ thể đối với việc thi hành án dân sự mà pháp luật quy định cho mỗi chủ thể có các quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định. Căn cứ vào địa vị pháp lý của các chủ thể quan hệ pháp luật thi hành án dân sự có thể phân các chủ thể thành ba nhóm:
+ Nhóm thứ nhất bao gồm các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc tổ chức, kiểm sát thi hành án dân sự như cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại, tòa án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và viện kiểm sát;
+ Nhóm thứ hai bao gồm các chủ thể tham gia thi hành án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác như đương sự, người đại diện của đương sự;
+ Nhóm thứ ba bao gồm các chủ thể tham gia thi hành án dân sự có tính chất hỗ trợ cơ quan thi hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành án dân sự như người định giá tài sản, uỷ ban nhân dân các cấp, người được giao giữ tài sản kê biên để thi hành án dân sự…
2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Theo lý luận Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật thì khách thể của quan hệ pháp luật là những gì các bên chủ thể mong muốn đạt được. Từ đó, khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là mục đích, mối quan tâm chung của các chủ thể và là yếu tố thúc đẩy các bên tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mỗi chủ thể có những mục đích, động cơ và nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: Người được thi hành án mong muốn các quyền dân sự của mình được nhanh chóng khôi phục, cơ quan thi hành án dân sự mong muốn tổ chức thi hành án dân sự có hiệu quả v.v.. Nhìn bề ngoài thì mục đích tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự của các chủ thể hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy, xét cho cùng các chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự vẫn có mong muốn chung là các đương sự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ của họ ghi trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành để chấm dứt tranh chấp giữa họ. Do đó, vấn đề thực hiện được quyền, nghĩa vụ của đương sự ghi trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành chính là khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
– Khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là việc thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong các bản án, quyết định được đưa ra thi hành.
Khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự có đầy đủ những đặc điểm của khách thể quan hệ pháp luật nói chung, là cái mà các chủ thể mong muốn đạt được và là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ. Tuy vậy, khách thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự khác với khách thể của nhiều quan hệ pháp luật khác ở chỗ yếu tố tài sản, lợi ích về vật chất không mang tính quyết định đối với việc tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự của các chủ thể. Trong nhiều trường hợp việc thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của họ trong thi hành án dân sự do pháp luật quy định chính là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
2.3. Nội dung của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Nội dung của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự cũng là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Cũng như nội dung các quan hệ pháp luật khác, nội dung của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự phản ánh địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Xét dưới góc độ cụ thể thì nội dung của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự bao gồm toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
Căn cứ vào yêu cầu của công tác thi hành án dân sự và tùy vào mục đích, tính chất tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể mà pháp luật thi hành án dân sự quy định cho mỗi chủ thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Trong đó, các quyền và nghĩa vụ của cơ quan thi hành án dân sự có tính chất đặc biệt, ngoài chủ thể này không chủ thể nào có được vì nó xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý xã hội của Nhà nước. Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể duy nhất được Nhà nước trao cho quyền lực cần thiết để tổ chức thi hành án dân sự.
Việc thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong quá trình thi hành án dân sự là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các chủ thể. Để bảo đảm việc thi hành án dân sự được nhanh chóng và đúng đắn thì các chủ thể phải thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình theo đúng quy định của pháp luật và có thiện chí. Trường hợp chủ thể không thực hiện đầy đủ và đúng các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và theo quy định của pháp luật trong những trường hợp cần thiết cơ quan nhà nước có thẩm quyền được áp dụng các chế tài pháp lý đối với họ.