1. Cơ sở pháp lý
Nội luật hóa Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên, theo đó, trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng về việc không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Kế thừa Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ cũng như đặc điểm và truyền thống lập pháp nước ta, về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, mô hình tố tụng hình sự không thừa nhận tư tố, thỏa thuận nhận tội như ở một số mô hình tố tụng hình sự khác. Do đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan công quyền, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứ không thuộc về người bị buộc tội.

2. Nội dung của nguyên tắc
Để hoạt động đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời, Luật tố tụng hình sự đã ghi nhận nguyên tắc này như sau:
– Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không được thiên vị, định kiến, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
– Mọi tình tiết thu được trong quá trình giải quyết vụ án đều được đánh giá trên cơ sỡ pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn được thực hiện tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để làm chủ nghề nghiệp, tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lý, có thói quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lý. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án phải dựa trên quan điểm Mác-Lênin về vấn đề nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
– Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc vê các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Luật tố tụng hình sự quy định người bị buộc tội không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Muốn xác định được người bị buộc tội có tội hay không có tội thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, người bị buộc tội có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của người bị buộc tội, kết hợp những chứng cứ khác, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định người bị buộc tội có tội hay không có tội.