1. Cơ sở pháp lý
Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thiết lập mới nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai như sau: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đểu có quyền tham dự phiên tòa…”. Nguyên tắc này xuất phát từ quy định của Hiến pháp năm 2013, đó là: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai còn được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
2. Nội dung của nguyên tắc
– Tòa án xét xử kịp thời sẽ bảo đảm cho việc xét xử không bị quá hạn hoặc trì hoãn không cần thiết, hoặc trong trường hợp Tòa án đã chuẩn bị xét xử xong thì có thể sớm đưa vụ án ra xét xử mà không cần để cho vụ án đến cuối thời hạn mới đưa ra xét xử. Việc kéo dài thời hạn xét xử có thể ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
– Thực hiện xét xử công bằng có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng hình sự. Trước hết, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ thủ tục xét xử, Hội đồng xét xử phải công tâm. Hội đồng xét xử điều khiển phiên tranh tụng và áp dụng các thủ tục tố tụng tại phiên tòa phải bình đẳng, dân chủ, tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ để chứng minh và trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ án. Việc xét xử công bằng nghĩa là người tiến hành tố tụng không được định kiến, thiên vị bất cứ ai, coi trọng tính khách quan, sự thật của vụ án. Sự thật của vụ án là mục đích hướng đến của phiên tranh tụng. Để bảo đảm xét xử công bằng thì công tác chuẩn bị xét xử vô cùng quan trọng. Vai trò của chủ tọa phiên tòa có tính chất quyết định trong việc dẫn dắt phiên tranh tụng. Thủ tục xét xử quy định các bên tại phiên tòa có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ chứng minh, đưa ra yêu cầu và kiến nghị để bảo đảm quyền lợi của mình.
– Thực hiện xét xử công khai là yêu cầu cần thiết cho việc tham gia chứng kiến của mọi người đối với công việc xét xử của Tòa án. Việc xét xử công khai giúp cho người dân giám sát công tác xét xử của Tòa án; vể phía Hội đồng xét xử phải cân nhắc, khách quan hơn trong việc điều khiển phiên tòa và áp dụng các thủ tục tố tụng. Việc xét xử công khai tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa, được trình bày nguyện vọng của mình mà không sợ bị che giấu sự thật.
– Thực hiện nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai yêu cầu vai trò của chủ tọa phiên tòa trong việc điều khiển phiên tòa phải khoa học, khẩn trương. Chủ tọa phiên tòa giúp cho phiên tranh tụng diễn ra bình đẳng, không bị kéo dài một cách không cần thiết; yêu cầu Kiểm sát viên phải đối đáp hết ý kiến của người tham gia tố tụng…, làm cho phiên tranh tụng diễn ra dân chủ, chứng cứ, tình tiết vụ án được làm rõ, khách quan, toàn diện. Vai trò của Hội đồng xét xử có ý nghĩa bảo đảm thủ tục tranh tụng, tạo điều kiện thuận lợi để người tham gia tố tụng thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, triệu tập thêm người làm chứng và quyền yêu cầu, đê’ nghị của mình V.V.; Hội đồng xét xử còn là chủ thể quyết định đến các thủ tục tranh tụng khác có thể ảnh hưởng đến quyền của người tham gia tố tụng, như xem xét tạm ngừng hoặc hoãn phiên tòa, cách ly bị cáo hoặc cách ly người làm chứng V.V.. Phiên tòa được diễn ra công khai đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải áp dụng đúng đắn thủ tục xét hỏi, tranh luận, nhằm tránh cho Tòa án mắc phải sai lầm khi áp dụng thủ tục tố tụng tại phiên tòa, có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng do vụ án bị hủy để xét xử lại vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; về việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu trong vụ án cũng phải được diễn ra công khai, nhằm tránh việc bỏ sót hoặc xem xét cẩu thả. Việc xét xử công khai là nhằm tránh cho việc xét xửókín một cách không cần thiết; việc xét xử công bằng là vô cùng quan trọng vì nó thể hiện ở nhiều phương diện trong quá tranh tụng, như thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, vai trò của các bên tranh tụng V.V., là cơ sở để bảo đảm công lý được thực thi.