1. Cơ sở pháp lý
Quyền bào chữa luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định tại Điểu 12 nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”; nguyên tắc này được quy định tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng diện người được hưởng quyền bào chữa là người bị tạm giữ. Tuy nhiên, việc mở rộng ấy vẫn chưa bao quát hết được những người bị buộc tội cần phải có người bào chữa, như người bị tình nghi, bị bắt, người bị tố giác..; cũng như điều luật chưa xác định cụ thể cách thức cơ quan tiến hành tố tụng giúp người buộc tội tiếp cận với người bào chữa đê’ giúp đỡ họ.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền bào chữa, đó là: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”, và đã xác lập tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Người bị buộc tội có quyên tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyên và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.

2. Nội dung của nguyên tắc
Trước khi làm rõ nội hàm quy định tại Điều 16 nêu trên, chúng ta cần hiểu khái niệm “người bị buộc tội” và khái niệm “quyền bào chữa”
– “Người bị buộc tội” là người bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tố tụng nhằm bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự và thực hiện trách nhiệm hĩnh sự trong bản án. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, người bị buộc tội bao gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Chúng ta cần lưu ý là người bị buộc tội khác với người có tội. Người bị buộc tội còn có thể gọi là người bị tình nghi, nhưng có lẽ người bị tình nghi có phạm vi hẹp hơn về mặt chủ thể, theo đó nên chỉ là người bị bắt, bị tạm giữ và bị can. Còn người có tội phải là người đã có bản án kết tội của Tòa án phát sinh hiệu lực pháp luật.
– “Quyền bào chữa” đó là việc người bị buộc tội và người bào chữa áp dụng các biện pháp và thực hiện các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quyền bào chữa để thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và được hầu hết các bản Hiến pháp, Luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới ghi nhận rất sớm. Quyền bào chữa còn được ghi nhận trang trọng trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế. Điều đó cho thấy giá trị quan trọng của quyền bào chữa, là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người. Ở đâu xuất hiện sự buộc tội và xét xử thì ở đó xuất hiện quyền bào chữa. Nghĩa là, không có buộc tội thì sẽ không xuất hiện quyền bào chữa, và không có buộc tội thì cũng không xuất hiện việc xét xử.
Để bảo đảm quyền bào chữa, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định các hình thức bào chữa, bao gồm: Tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa và bào chữa chỉ định.
+ Tự bào chữa: là việc người bị buộc tội tự mình đưa ra chứng cứ, tài liệu để thực hiện việc bào chữa; người bị buộc tội tự mình lập luận khi tranh luận tại phiên tòa; thực hiện các quyền do pháp luật quy định như quyền kiến nghị, đưa ra các yêu cầu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giai đoạn tố tụng.
+ Nhờ người khác bào chữa: là việc người bị buộc tội nhờ sự trợ giúp của người khác tham gia tố tụng để họ hỗ trợ về mặt pháp lý và thực hiện các nghiệp vụ bào chữa nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho họ (chủ yếu là người có chuyên môn, am hiểu pháp lý). Người bị buộc tội có thể nhờ những người sau đây bào chữa cho mình (là những người bào chữa theo cách gọi của Bộ luật Tố tụng hình sự):
- Luật sư;
- Người đại diện của người bị buộc tội;
- Bào chữa viên nhân dân;
- Trợ giúp viên pháp lý (trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý).
Trong số những người bào chữa đã đề cập thì chỉ có Luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp. Người bị buộc tội có quyền có người đại diện, bao gồm các trường hợp: người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Tác giả cho rằng, người đại diện tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa là chưa khoa học, họ chỉ nên với tư cách người đại diện tham gia tố tụng một cách thông thường; kể cả trường hợp Bào chữa viên nhân dân, cũng chỉ nên gọi với tư cách tham gia tố tụng như các trường hợp thông thường khác tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vì họ đại diện cho đoàn thể tham gia tố tụng, để bảo vệ cho thành viên tổ chức mình, với tiêu chuẩn tại khoản 3 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đã là người bào chữa thì phải có khả năng chuyên môn pháp lý, tính chuyên nghiệp cao. Những người đại diện như vừa nêu ra phiên tòa với khả năng tranh tụng hạn chế, thường chỉ trình bày ý kiến xin giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý. Tố tụng hình sự nước ta quy định nhiều người bào chữa khác nhau được tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo đảm sự tham gia đông đảo và giám sát của quần chúng nhân dân trong hoạt động tố tụng và giảm chí phí tố tụng. Thế nhưng tính chất của bào chữa khác với việc trình bày ý kiến trước phiên tòa. Công việc bào chữa phải có tính chuyên nghiệp, có trình độ pháp lý cao mới bảo đảm tăng cường tính tranh tụng. Việc quy định nhiều người bào chữa có thể gia tăng thủ tục tố tụng.
+ Bào chữa chỉ định: hình thức bào chữa này còn được gọi là bào chữa bắt buộc hoặc là bào chữa do Nhà nước cử. Bào chữa chỉ định là việc Nhà nước chịu chi phí và tiến hành các thủ tục để cử người bào chữa tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Người bị buộc tội được Nhà nước cử người bào chữa phải là:
- Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Trong các trường hợp nêu trên, khi tiến hành tố tụng nếu như người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa, thì cơ quan tiến hành tố tụng mới chỉ định người bào chữa cho họ. Như vậy, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng là phải hỏi người bị buộc tội, người đại diện và người thân thích của người bị buộc tội về việc họ có mời người bào chữa hay không. Việc này được tiến hành khi lấy lời khai hoặc lập biên bản làm việc. Việc mời người bào chữa hay không, mời người nào trước hết thuộc về ý chí và quyền của người bị buộc tội và người thần thích của họ, được Nhà nước tôn trọng. Bên cạnh đó, quyền yêu cẩu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa được pháp luật xác lập như sau:
Một là, trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đê’ nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng với người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối.
Hai là, dù cơ quan tiến hành tố tụng đã cử người bào chữa, nhưng ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi sang người bào chữa khác hoặc từ chối. Thủ tục cử và thay đổi người bào chữa khác tuân thủ theo khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nếu từ chối người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng lập biên bản ghi nhận việc từ chối và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Ý nghĩa của quy định bào chữa chỉ định trong tố tụng hình sự Việt Nam: Bào chữa chỉ định có ý nghĩa chính trị, xã hội khi nó thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới đất nước, cụ thể nhất là chính sách hình sự nhân đạo. Nhà nước quan tâm bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong các trường hợp họ phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng; hình phạt đặc biệt nghiêm khắc có thể tước bỏ mạng sống của họ. Một mặt có thể giảm mức độ sự nghiêm khắc của hình phạt, mặt khác để tránh sự rủi ro, sai sót trong hoạt động tố tụng. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, họ là người chưa hoàn thiện về thể chất, chưa có nhiều kinh nghiệm cuộc sống, dễ bị xúi giục, kích động phạm tội. Do đó, cần thiết phải có người bào chữa giúp đỡ họ về mặt pháp lý và nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đó cũng là thực hiện chính sách hình sự nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi. Nhà nước áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện đối với họ và coi giáo dục là chủ yếu, chứ không phải là trừng trị.
Một số quy định khác để bảo đảm thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội:
– Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định quyền của người bào chữa, bao gồm: Gặp, hỏi người bị buộc tội, có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và được đặt câu hỏi nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý; có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định; được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác trong một số trường hợp hoặc khi người bào chữa có yêu cầu được chấp nhận; xem biên bản về hoạt động tố tụng có mình tham gia và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo luật định; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; đề nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đổ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đê’ nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản; khi kết thúc điểu tra được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất…
Như vậy, vai trò của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự tuy đã được mở rộng hơn nhiều so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhưng vẫn còn một số hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra. Người bào chữa chủ yếu thực hiện quyền đê’ nghị, việc chấp nhận hay không không có tính ràng buộc. Việc tham gia chứng kiến các hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ, tài liệu phục vụ việc bào chữa và tranh tụng của người bào chữa phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng; việc đọc hồ sơ, sao chép tài liệu trong hồ sơ vụ án chỉ vào thời điểm kết thúc điều tra; việc hỏi người bị tạm giữ, bị can đôi lúc còn bị hạn chế…
– Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng và thủ tục đăng ký bào chữa:
+ Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng là kể từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan có thẩm quyền điều tra, hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thi Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Như vậy, người bào chữa có thể tham gia tố tụng sớm hơn, trong một số trường hợp một người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ. Các trường hợp người có dấu hiệu phạm tội (có thể gọi là người bị tình nghi) được mời làm việc, đang xác minh để giải quyết tin báo, tố giác tội phạm mà chưa khởi tố bị can thì người bào chữa chưa được tham gia tố tụng. Do tính chất bí mật trong hoạt động điều tra, bảo đảm hoạt động thu thập, bảo quản chứng cứ được trọn vẹn, mà pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa như vậy là phù hợp.
+ Thủ tục đăng ký bào chữa: việc đăng ký bào chữa là bắt buộc; nếu là Luật sư phải xuất trình thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện hoặc của người thân thích của người bị buộc tội. Nếu là Luật sư diện chỉ định thì còn phải có thêm văn bản cử hoặc phân công của tổ chức luật sư nơi người đó hoạt động. Những người bào chữa khác phải có giấy tờ chứng minh nhân thân theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa theo quy định thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ. Nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối đăng ký và phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Như vậy có thể thấy, thủ tục đăng ký bào chữa đơn giản, bớt rườm rà so với quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước đây (người bào chữa phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận và kèm theo nhiều loại giấy tờ, trong thời hạn 03 ngày làm việc, cơ quan tiến hành tố tụng xem xét cấp hay không cấp giấy chứng nhận, gây khó khăn cho người bào chữa phải đi lại nhiều lần), thuận lợi hơn cho người bào chữa, đặt trách nhiệm cho cơ quan tiến hành tố tụng phải đăng ký cho người bào chữa và chủ động thông báo việc này. Đó là thành tựu của công cuộc cải cách tư pháp trong nhiều năm qua, trong đó cải cách thủ tục tư pháp được chú trọng.