1. Vùng tiếp giáp lãnh hải
1.1. Khái niệm
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.
1.2. Chế độ pháp lý
Sự tồn tại của vùng tiếp giáp lãnh hải trong thực tiễn nhằm:
– Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
– Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.
Các quy định hiện hành của Luật biển đều khẳng định vùng tiếp giáp lãnh hải không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và là bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế. Tại đây, quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải. Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải mà không có sự thoả thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng đặc quyền kinh tế
2.1. Khái niệm
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V – Vùng đặc quyền kinh tế của Công ước luật biển 1982, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền cũng như các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. Vùng biển này có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Khái niệm và sự hình thành của vùng này trong lịch sử phát triển của Luật biển quốc tế bắt nguồn từ sự kiện, ngày 28 tháng 9 năm 1945, Tổng thống Mỹ Truman đưa ra một Tuyên bố về nghề cá ven bờ trong một số vùng của biển cả, trong đó Mỹ đề nghị thiết lập một “vùng bảo tồn một phần nhất định của biển cả tiếp tiến với bờ biển nước Mỹ, tại đó các hoạt động nghề cá đã và sẽ phát triển trong tương lai ở mức độ quan trọng” nằm ngoài lãnh hải 3 hải lý. Các nước Mỹ – La tinh như Chilê, Peru và Ecuado đã mở rộng lãnh hải của mình ra 200 hải lý, dưới tên gọi vùng biển di sản, lãnh hải di sản, loại bỏ quyền tự do hàng hải và các quyền tự do biển cả khác. Một số nước khác cũng yêu sách về một vùng đánh cá đặc quyền. Tình hình này gây ra sự lo ngại và chống đối từ các quốc gia hàng hải lớn. Năm 1971, Kenya và sau đó là các nước Á-Phi đã đưa ra đề nghị cung hoà hai lập trường trên: Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia ven biển có “thẩm quyền đặc biệt nhằm kiểm soát, quy định, khai thác và bảo vệ các tài nguyên sinh vật cũng như không sinh vật của vùng và nhằm ngăn ngừa và đấu tranh chống lại Ô nhiễm” trong khi các quyền tự do hàng hải, tự do bay, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngâm được bảo lưu.
Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế nhanh chóng được chấp nhận, không gây ra sự phản đối nào. Khái niệm này đã có giá trị tập quán trước khi được ghi nhận trong Công ước luật biển 1982.
Điều 15, Điều 16 Luật biển Việt Nam năm 2012 quy định vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Nhà nước Việt Nam có quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế. Nhà nước Việt Nam có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.

2.2. Chế độ pháp lý
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển đặc thù, trong đó thể hiện sự cân bằng giữa “các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển” với các quyền và các quyền tự do của các quốc gia khác.
Theo quy định của Công ước luật biển 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:
– Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
– Quyền tài phát theo đúng những quy định thích hợp của công ước về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển cũng như các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Tính đặc quyền của quốc gia ven biển thể hiện trong việc quốc gia ven biển có toàn quyền đánh giá nguồn tiềm năng đối với các tài nguyên sinh vật, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc khai thác, duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới chỉ có thể tham dự vào việc duy trì các nguồn lợi sinh vật này ở mức độ “hợp tác một cách thích hợp” với quốc gia ven biển. Tuy nhiên, đối với tài nguyên sinh vật, đặc quyền này chấp nhận ngoại lệ nếu tổng khối lượng cho phép đánh bắt lớn hơn khả năng khai thác của quốc gia ven biển, có nghĩa là tồn tại một số dư của khối lượng cho phép đánh bắt thì quốc gia ven biển lại có nghĩa vụ “tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền kinh tế” mà không phương hại đến đặc quyền bảo tồn tài nguyên sinh vật của mình. Quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có thu tiền cho các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý.
Để thực hiện có hiệu quả quyền chủ quyền của mình đối với tài figuyên trong vùng đặc quyền kinh tế quốc gia ven biển có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình. Quyền tài phán này của quốc gia yên biển không chỉ mở rộng đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đặt trong cột nước trong vùng đặc quyền kinh tế mà còn đối với cả các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đặt trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của vùng.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và ở trên thềm lục địa phải được tiến hành với sự thoả thuận của quốc gia ven biển và không được gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công ước đã trù định.
Công ước Luật biển 1982 công nhận cho quốc gia ven biển quyền tài phán về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển chống lại các ô nhiễm bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện do các quy định thích hợp của Công ước luật biển 1982 trù định, đều được hướng ba quyền tự do cơ bản:
– Quyền tự do hàng hải;
– Quyền tự do hàng không,
– Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngâm.
3. Thềm lục địa
3.1. Khái niệm thềm lục địa địa chất và thềm lục địa pháp lý
Thềm lục địa địa chất là một bộ phận của rìa lục địa. Rìa lục địa chiếm 22% bề mặt đại dương, là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi ba thành phần:
– Thềm lục địa (continental shelf) là phần nền lục địa ngập dưới nước với độ dốc thoai thoải (độ dốc trung bình (,07-1°) thường kéo dài đến độ sâu 200 m.
– Dốc lục địa (continental slope) là phần nằm giữa thềm lục địa và bờ lục địa, phân biệt với thềm lục địa bằng một sự thay đổi độ dốc đột ngột, trung bình khoảng 4-5, đôi khi tới 45°.
– Bờ lục địa (continental rise): Vùng tiếp theo dốc lục địa khi độ dốc thoải trở lại, thường rất nhỏ 0,5° mở rộng từ chân dốc lục địa cho đến khi gặp đáy đại dương.
Theo Công ước Giơnevơ năm 1958 về thêm lục địa, thêm lục địa pháp lý được hiểu là đáy và lòng đất dưới đáy của các khu vực ngầm dưới biển tiếp giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200 mét nước hoặc vượt ra ngoài giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên của các khu vực ngầm dưới biển đó. Công thức này không thực tiễn, bất hợp lý và không công bằng.
Công ước luật biển 1982 đã đưa ra định nghĩa mới Công bằng hơn, theo đó, thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bề ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn.
Trong trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình:
– Hoặc theo bề dày trầm tích: Đường Vạch nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa.
– Hoặc theo khoảng cách: Đường vạch nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý.
Tuy nhiên, ranh giới này không được vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước luật biển 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Uỷ ban ranh giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước.
Quyền lợi của các quốc gia ven biển có thềm lục địa rộng còn bị hạn chế bởi hai quy định khác. Thứ nhất, quốc gia ven biển có thềm lục địa mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải phải xác định rõ tọa độ, thông báo các thông tin về các ranh giới ngoài của thềm lục địa cho Uỷ ban ranh giới thêm lục địa. Quốc gia ven biển thực hiện điều này khi có điều kiện và trong bất cứ hoàn cảnh nào trong một thời hạn 10 năm kể từ khi Công ước có hiệu lực đối với quốc gia này. Hội nghị các nước thành viên Công ước đã thoả thuận thời điểm cuối để thông báo về ranh giới nói trên là vào năm 2009. Thứ hai, quốc gia ven biển có thêm lục địa mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải phải có nghĩa vụ đóng góp bằng tiền hay bằng hiện vật về việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
3.2. Chế độ pháp lý
Theo Luật biển quốc tế hiện đại, quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Đây là những quyền có tính chất đặc quyền, do đó nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì quốc gia khác cũng không có quyền tiến hành các hoạt động như vậy khi không có sự thoả thuận rõ ràng của các quốc gia sở tại.
Đặc biệt, các quyền của quốc gia ven biển đối với thêm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Điều quy định này đối với quyền chủ quyền của quốc gia ven bờ tại thêm lục địa khác với quyền chủ quyền của quốc gia này trong vùng đặc quyền kinh tế.
Tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa không chỉ bao hành các tài nguyên không sinh vật mà còn cả tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư. Quốc gia ven biển không chỉ có quyền chủ quyền đối với tài nguyên của thềm lục địa mà còn đối với cả chính thềm lục địa. Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì và theo Điều 85 thi: “Quyền của quốc gia ven biển được khai thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào đường hâm, bất kể độ sâu của các vùng nước ở nơi ấy là bao nhiêu”.
Quốc gia ven biển còn có các quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên thềm lục địa, quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển, quyền tài phán về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Trong khi thực hiện các quyền của mình, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyển của các quốc gia khác.
Quy chế pháp lý của thềm lục địa khẳng định, các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này. Do đó, quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được Luật biển thừa nhận.
Điều 79 Công nước luật biển 1982 cũng khẳng định: “Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm thể lục địa... trong điều kiện cỔ quyền thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa và ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cải trở việc lắp đặt hay bảo quản các dây cáp và ống dẫn đó“.