1. Vai trò và nhiệm vụ của chính sách xã hội
1.1. Vai trò của chính sách xã hội
– Chính sách xã hội là một trong các công cụ, biện pháp để Nhà nước tiến hành phát triển toàn diện con người. Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, nó phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực con người trong việc ổn định và phát triển xã hội, nó ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của xã hội. Nhiệm vụ của chính sách xã hội là căn cứ trên các yếu tố kinh tế xã hội để đề ra và thực thi biện pháp, các giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điều kiện sống ngày càng tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần. Các chính sách xã hội được xây dựng dựa trên nhu cầu hợp lý và lành mạnh của con người cả về vật chất lẫn tinh thần, dựa trên những dự báo khuynh hướng phát triển của con người, của nền kinh tế xã hội để khơi dậy tính tích cực, kích thích kinh tế xã hội phát triển, nó góp phần điều tiết quan hệ xã hội nhằm bảo đảm và thiết lập xã hội công bằng, văn minh, để con người chăm lo làm việc tốt cho mình và cho xã hội. Với ý nghĩa đó, chính sách xã hội thật sự là một nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
– Chính sách xã hội như một công cụ để khắc phục những phân hóa, mâu thuẩn và khác biệt xã hội, để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm phát huy khả năng của toàn xã hội vào những mục tiêu chung. Nói cách khác, khi xã hội có “vấn đề xã hội” nảy sinh, tức là cơ cấu xã hội của xã hội đó không còn phù hợp để thúc đẩy xã hội phát triển, khi đó, cần phải điều chỉnh vào các phân hệ của cơ cấu xã hội bằng cách dùng các chính sách xã hội tác động vào để cho xã hội được công bằng, tạo môi trường tích cực cho xã hội phát triển và từ đó hướng tới hình thành cơ cấu xã hội mới phù hợp, tối ưu, đảm bảo cho xã hội tồn tạị và phát triển trong sự ổn định. Tóm lại, để đảm bảo xã hội phát triển trong sự ổn định nhất thiết phải có chính sách xã hội hợp lý và giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ xã hội trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau.
– Chính sách xã hội còn có vai trò quan trọng để hướng tới sự công bằng xã hội, do đó tạo tính tích cực, năng động xã hội, làm cho xã hội phát triển bền vững. Vì vậy, công bằng ở đây là sự cân đối mặt bằng giữa các chính sách, là giải quyết chính sách xã hội sao cho vấn đề lợi ích giữa các đối tượng có thể có chênh lệch nhưng xã hội chấp nhận được. Nếu không có chính sách xã hội phù hợp, giải quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này, có thể sẽ làm triệt tiêu các động lực xã hội, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng xã hội. Bài học kinh nghiệm qua việc áp dụng một chính sách cào bằng chung chung trong thời bao cấp trước đây ở nước ta dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng cho thấy rõ điều đó.

1.2. Nhiệm vụ chính sách xã hội
Để đạt tới sự công bằng an toàn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện, chính sách xã hội thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản như sau:
Một là, tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về dân số, gia đình, bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi giải trí, khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội.
Hai là, góp phần vào việc xây dựng nền tảng vững chắc xã hội với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục khoa học, nghệ thuật…bảo đảm phát triển bền vững của xã hội.
Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Bốn là, tạo đều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản phẩm vật chất, tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo đức pháp lý của chế độ xã hội mới.
Năm là, tạo lập, hình thành mô hình lối sống mới theo hướng phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hoà với sự phát triển của công đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống đẹp của dân tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
2. Đặc trưng của chính sách xã hội
Chính sách xã hội khác với chính sách khác như chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng…, sự khác biệt này bắt nguồn từ khía cạnh xã hội, tính chất xã hội của nó. Theo đó ta thấy chính sách xã hội có những đặc trưng cơ bản sau:
– Chính sách xã hội là chính sách đối với con người nhằm vào con người, lấy con người làm trung tâm phát triển con người một cách toàn diện.
– Chính sách xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, luôn hướng tới việc hình thành những giá trị chuẩn mực mới, tiến bộ góp phần đẩy lùi các ác, cái xấu trong xã hội.
– Chính sách xã hội có tính trách nhiệm xã hội cao, bao giờ cũng quan tâm đến số phận của những con người cụ thể, quan tâm đến những cá nhân sống trong những điều kiện thiệt thòi, khó khăn so với mặt bằng chung của xã hội lúc bấy giời. Tạo điều kiện cho những cá nhân đó phát huy những khả năng vốn có của mình vươn lên hoà nhập với xã hội.
– Chính sách xã hội để thực hiện đúng mục tiêu, đối tượng bao giờ cũng có cơ chế hoạt động, bộ máy nhân sự, chương trình dự án và kinh phí hoạt động riêng của nó.
3. Phân loại chính sách xã hội
– Xét ở tính phổ biến (gọi là chính sách xã hội phổ biến) có: Chính sách dân số, chính sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm xã hội (BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội), chính sách phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
– Xét theo giai cấp, tầng lớp xã hội (chính sách xã hội với các giai tầng xã hội) có: Chính sách xã hội với giai cấp công nhân; Chính sách xã hội đối với giai cấp nông dân; Chính sách xã hội đối với tầng lớp trí thức và sinh viên; Chính sách xã hội đối với doanh nghiệp tư nhân…
– Xét theo giới đồng bào (chính sách xã hội đối với các giới đồng bào) có: Các chính sách đối với thanh niên, phụ nữ và gia đình, các dân tộc thiểu số, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài ….
– Theo đối tượng, tính chất và phạm vi có các chính sách xã hội được tính đến, được lồng ghép, được xây dựng trong khi hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế như: Chính sách xã hội cơ bản, chung cho mọi đối tượng trong cộng đồng (chính sách giáo dục, y tế, bảo hiểm…); Chính sách xã hội cấp bách để tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội gay cấn (chính sách việc làm, xóa đói giảm nghèo …); Chính sách xã hội cho một số đối tượng đặc biệt (người già cô đơn, tàn tật….).