1. Căn cứ pháp lý
Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được quy định tại Điều 108 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể:
Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị phạt như sau:
1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình;
2. Người đồng phạm khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm;
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Cấu thành tội phạm của tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Các yếu tố cấu thành tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
2.1. Mặt khách quan
Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được hiểu là hành vi hoạt động nhằm thành lập tổ chức hoặc tham gia các tổ chức với mục đích lật đổ chính quyền nhân dân. (Chính quyền nhân dân là bộ máy Nhà nước được thiết lập từ Trung ương đến địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân. Bộ máy nhà nước Việt Nam gồm có bốn cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã).
Mặt khách quan của tội phạm này được đặc trưng bởi một trong 2 loại hành vi sau:
a) Có hành vi tiến hành các hoạt động nhằm thành lập tổ chức phản động, hành vi này thể hiện qua việc vạch kế hoạch thành lập tổ chức phản động, Soạn thảo cương lĩnh, điều lệ hoặc vạch ra chủ trương, đường lối phương hướng, kế hoạch chương trình hoạt động cụ thể của tổ chức, chuẩn bị tài liệu huấn luyện; tuyên truyền, lôi kéo, tập hợp người vào tổ chức; bàn bạc, thảo luận về việc thành lập tổ chức, phân công nhiệm vụ, tiến hành những hoạt động cần thiết để thành lập tổ chức; Ủng hộ vật chất, tinh thần cho việc thành lập tổ chức… với mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Hoạt động thành lập các tổ chức bao gồm các hoạt động chuẩn bị thành lập tổ chức, đã hoặc đang tiến hành thành lập tổ chức phản động. Đối với loại hành vi này thì thời điểm tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đề xướng ra chủ trương đường lối cho người thứ hai biết.
Hành vi thực hiện hoạt động này gồm nhiều dạng khác nhau và có thể do nhiều loại người thực hiện, trong đó có thể là hành vi của người tổ chức, người thực hành, người giúp sức, người xúi giục.
b) Có hành vi tham gia tổ chức phản động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Được hiểu là trường hợp có người phạm tội tuy không tham gia thành lập tổ chức phản động nhưng biết rõ mục đích của tổ chức là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và đã tán thành cương lĩnh, điều lệ, tự nguyện đứng vào trong hàng ngũ của tổ chức phản động đó. Thể hiện cụ thể của hành vi tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân rất đa dạng, phong phú như nhận lời tham gia dưới hình thức thỏa thuận miệng; nhận lời tham gia bằng văn bản như viết đơn, cam đoan xin gia nhập tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân…Người phạm tội biết rõ được mục đích hoạt động của tổ chức là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nhưng vẫn tự nguyện tham gia vào tổ chức đó. Đối với hành vi này thời điểm tội phạm hoàn thành khi biểu hiện sự đồng ý tham gia vào tổ chức.
Nếu do bị lừa dối, không nhận thức được tính chất và mục đích của tổ chức là lật đổ chính quyền nhân dân thì không bị coi là phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Tội phạm này có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi để thành lập tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, không phụ thuộc vào việc tổ chức đã hình thành hay chưa hoặc từ khi nhận lời, đăng ký…tham gia vào tổ chức, không kể đã có hoạt động cụ thể gì hay chưa.
Chú ý:
– Người chuẩn bị phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
– Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân khác tội phản bội Tổ quốc ở chỗ: Tội phản bội Tổ quốc có dấu hiệu câu kết với nước ngoài, còn tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân không có dấu hiệu câu kết với nước ngoài. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân cho thấy, người phạm tội có xu hướng móc nối với nước ngoài nhằm nhận sự giúp đỡ về vật chất, phi vật chất của nước ngoài để thực hiện mục đích lật đổ chính quyền nhân dân. Cần phân biệt hai trường hợp: Nếu người phạm tội chưa liên hệ hoặc đã liên hệ được với nước ngoài nhưng chưa nhận được sự thỏa thuận giúp đỡ, tài trợ nào đã bị phát hiện, thì truy cứu TNHS về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Nếu đã liên hệ, bàn bạc với nước ngoài, nhận sự giúp đỡ của nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị truy cứu TNHS về tội phản bội Tổ quốc.

2.2. Mặt khách thể
Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến chế độ chính trị, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, uy hiếp đến sự tồn tại, ổn định và phát triển bền vững của chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Đối tượng tác động của tội phạm này là chính quyền nhân dân các cấp từ trung ương đến địa phương. Tùy theo tính chất, quy mô của tội phạm, những người phạm tội có thể hoạt động nhằm lật đổ chính quyền ở một cấp, một địa phương nào đó, song mục tiêu cuối cùng của chúng là lật đổ chính quyền nhân dân, thay đổi chế độ chính trị, kinh tế – xã hội.
2.3. Về mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả xảy ra nhưng vẫn thực hiện những hành vi phạm tội đó.
Mục đích của người phạm tội là nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi thành lập hay tham gia tổ chức nhưng người thực hiện hành vi không có mục đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì không cấu thành tội phạm này.
2.4. Về mặt chủ thể
Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào, có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch, từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
3. Về hình phạt
Hình phạt quy định đối với tội phạm này rất nghiêm khắc. Điều 109 quy định 3 khung hình phạt chính căn cứ vào vai trò của người phạm tội và giai đoạn thực hiện tội phạm:
– Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, áp dụng đối với người phạm tội là người tổ chức, người xúi giục, hoặc người đắc lực hoặc gây hậu quả nghiệm trọng.
– Quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm áp dụng đối với người phạm tội là người đồng phạm khác.
– Quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người chuẩn bị phạm tội này.
Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung quy định tại Điều 122 BLHS năm 2015, đó là tước một số quyền công dân từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.