1. Như thế nào là phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP, phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường hợp người phạm tội để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức mà thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi chống trả không tương xứng, có sự chênh lệch lớn so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Để xác định hành vi chống trả có “rõ ràng quá mức cần thiết” hay không phải xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những tình tiết, sự kiện liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi chống trả như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại mà hành vi xâm hại có thể gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp thực hiện; nhân thân người xâm hại; tương quan lực lượng, cường độ, mức độ của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ; bối cảnh, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra sự việc…
Ví dụ: Phạm Văn T dùng dao uy hiếp và đấm vào mặt Nguyễn Văn A. Để bảo vệ mình, A đã giằng co với T, cướp dao và ném xuống sông. Khi T bỏ chạy, A vẫn đuổi theo và lấy đá đập nhiều lần vào người T dẫn đến tổn thương cơ thể tỷ lệ 25%. Hành vi gây thương tích của A đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Điểm a, Điểm b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) cụ thể như sau:
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu;
– Người phạm tội là phụ nữ có thai;
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội tự thú;
– Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Như vậy, phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
3. Một số lưu ý khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
– Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
– Các tình tiết giảm nhẹ thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
– Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
– Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.


