1. Như thế nào là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng?
Theo hướng dẫn tại khoản 9 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là trường hợp phạm tội khi có đủ 02 điều kiện sau đây:
– Phạm tội lần đầu là trường hợp từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào hoặc trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; thuộc trường hợp được coi là không có án tích; trước đó đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích;
– Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm hoặc trường hợp người phạm tội có vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án đồng phạm về tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Tòa án chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi có đủ 02 điều kiện “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc ngược lại phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng không phải là phạm tội lần đầu thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Nếu bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị kết án hoặc chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong lần phạm tội sau thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
Ví dụ: Nguyễn Văn A chưa phạm tội lần nào, nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng). Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Điểm a, Điểm b Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) cụ thể như sau:
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu;
– Người phạm tội là phụ nữ có thai;
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội tự thú;
– Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Như vậy, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
3. Một số lưu ý khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
– Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
– Các tình tiết giảm nhẹ thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
– Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
– Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.


