1. Trợ cấp và tác động của trợ cấp
1.1. Khái niệm trợ cấp
Mặc dù thuật ngữ “trợ cấp” khá quen thuộc trong kinh tế nhưng rất ít khi được định nghĩa một cách chính xác. Thông thường, trợ cấp được hiểu là việc chính phủ chuyển tiền cho một tổ chức tư nhân. Trong một số trường hợp, thuật ngữ này chỉ việc mua hàng hóa hay dịch vụ tại mức giá thấp hơn mức giá mà đáng lẽ ra tổ chức tư nhân phải trả trong điều kiện bình thường. Hoặc trợ cấp nhằm chỉ các chính sách khác nhau của chính phủ như các chính sách mua sắm hay các chương trình đào tạo nhân công có ảnh hưởng thuận lợi cho vị thế cạnh tranh của một số tổ chức tư nhân. Tuy nhiên, không thể luôn khẳng định rằng những biện pháp này là trợ cấp theo đúng nghĩa của nó. Các chính phủ tham gia rộng rãi thông qua các chính sách thuế và chi tiêu, các chính sách này có thể áp đặt chi phí và tạo ra lợi ích cho các tổ chức tư nhân. Nếu cho rằng trợ cấp tồn tại bất cứ khi nào một chương trình của chính phủ mang lại lợi ích cho tổ chức tư nhân thì cách nhìn này mới chỉ phản ánh một chiều bởi rat thiệu chương trình của chính phủ cùng áp đặt chi phí lên cùng các tổ chức đó.
Có một số cách tiếp cận để xác định trợ cấp. Cách đơn gian nhất là xem xét mỗi chương trình của chính phủ một cách tách biệt và không xem xét xem liệu có bất kỳ lợi ích nào từ các chương trình này đã được cân bằng bởi chi phí ở chương trình khác. Nếu một chương trình cụ thể mang lại lợi ích cho một tổ chức tư nhân, có thể xem trợ cấp tồn tại mà không cần xem xét thêm. Cách xác định này được xem là đơn giản hoá, tuy nhiên lại bỏ qua một mặt quan trọng để xác định trợ cấp thực tế, đó là phần chi phí mà chính phủ áp đặt lên cùng chủ thể đó.
Cách xác định thứ hai là giả sử rằng thuế áp dụng rộng rãi, các chính sách chi tiêu và quy định tác động đến hầu hết các doanh nghiệp là như nhau và không tạo ra bất cứ trợ cấp ròng nào. Khi đó, các chương trình áp dụng trong phạm vi hẹp, nhằm tạo ra lợi ích cho một số ngành cụ thể có thể được xem là tạo ra lợi ích nhằm khuyến khích sản xuất trong ngành đó, và đã tồn tại trợ cấp. Tuy nhiên, giả định trong cách xác định này cũng không đúng vì rất nhiều chương trình áp dụng rộng rãi có các tác động khá khác biệt lên các ngành khác nhau. Vì vậy, rất khó phân định đây là chương trình áp dụng rộng rãi, đâu là chương trình áp dụng có mục tiêu.
Cách xác định thứ ba là xem xét tác động của chính sách của chính phủ lên các hoạt động tư nhân trong mối quan hệ so sánh với tác động của các chính phủ khác lên thực thể tương tự ở nơi khác. Giả định rằng hầu hết các chính phủ đánh thuế và quy định theo cách thức gần tương đương nhau, tạo ra các tác động nền tương tự lên vị thế cạnh tranh của các tổ chức tư nhân. Khi một chương trình cho một nhóm cụ thể có những ưu đãi rộng rãi so với các chương trình cho một nhóm tương tự khác trên thế giới thì có thể xem là trợ cấp. Ví dụ, nếu đa số các chính thu cung cấp các lợi ích nhất định cho nông dân của họ, những chương trình này có thể xem là đã triệt tiêu lẫn nhau trong thương mại quốc tế và được coi như không có trợ cấp. Nhưng nếu một chính phủ cung cấp những hỗ trợ đối với ngành bán dẫn trong bối cảnh các chính phủ khác không hỗ trợ gì cho ngành này thì có thể xem đây là trợ cấp. Tuy nhiên, cũng rất khó để áp dụng cách này trong thực tiễn.
Tóm lại, trợ cấp có thể tận hiểu là sự giúp đỡ của chính phủ dành cho một số tổ chức tư nhân và làm lợi cho những tổ chức này. Tuy nhiên, việc xác định trợ cấp trong thực tế là hết sức khó khăn.
1.2. Tác động của trợ cấp
Trước hết, trợ cấp làm lợi cho đối tượng nhận trợ cấp. người mua sản phẩm trợ cấp, tuy nhiên, lại làm giảm hiệu quả kinh tế xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế. Hình sau đây biểu diễn trạng thái cân bằng cho sản phẩm x khi không có trợ cấp và khi chính phụ trợ cấp.
Khi không có trợ cấp. Sản phẩm x được bán với giá P0 và số sản phẩm được bán ra mỗi năm là Q0. Khi đó,thặng dư tiêu dùng được biểu diễn là hình A và hình B, thặng dư sản xuất la hình G và F. Cân bằng khi không có trợ cấp là hiệu quả về mặt kinh tế.
Khi có khoản trợ cấp Y cho mỗi đơn vị sản phẩm x, người mua chỉ phải trả ở mức giá PB và người bán nhân được mức giá là Ps và Q1, sản phẩm được bán ra. Hay giá mà người bạn nhận được (bao gồm cả trợ cấp) Ps cao hơn giá mà người mua phải trả PB một lượng bằng trợ cấp tính trên mỗi đơn vị là Y. Như vậy, trợ cấp làm tăng mức giá mà người bạn nhận được từ P0 lên Ps, và giảm mức giá mà người mua phải trả từ P0 xuống PB và tăng lượng hàng hóa mua bán từ Q0 lên Q1.
Lúc này tháng dư tiêu dùng là A, B, E và F, còn thặng dư sản xuất là B, C, F và G. Cả người mua và người bán đều được lợi từ trợ cấp, bởi vì trợ cấp tăng giá mà người bán nhận được và giảm giá mà người mua phải trả. Cụ thể, người mua dược lợi phần E +F và người bán được lợi phần B + C từ khoản trợ cấp. Nhưng chính phủ lại mất phần B, C, D, E, F. Diện tích của hình chữ nhật (chính là B + C + D + E + F) thể hiện tổng giá trị của trợ cấp mà chính phủ cung cấp cho mặt hàng đó. Chiều rộng của hình chữ nhật là trợ cấp tính trên mỗi đơn vị hàng hóa Y, và chiều dài là số đơn vị sản phẩm được trợ cấp Q. Tổng chi phí trợ cấp chính là tích Y và Q. Có thể thấy, thiệt hại về phía chính phủ cao hơn phần lợi mà cả người tiêu dùng và nhà sản xuất có được một lượng là phần D.
Đối với nhà sản xuất, có thể thấy trợ cấp dành cho các nhà sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, điều này dẫn tới việc mở rộng sản xuất theo hai hướng, phụ thuộc vào bản chất của trợ cáp: (i) đòi ti những trợ cấp phụ thuộc trực tiếp vào sản lượng đầu ra. ví dụ chương trình trợ cấp có thể cấp cho mỗi nhà sản xuất 1 USD cho một sản phẩm đầu ra mà nhà sản xuất tạo ra. Xét theo góc độ kinh tế học, loại trợ cấp này tăng cùng với sản lượng đầu ra. Nó tương đương với việc giảm các chi phí sản xuất cận biên ngắn hạn cho nhà sản xuất nhận trợ cấp. Do vậy, các nhà sản xuất thường giảm giá là do lợi ích này. Theo đó, lượng cầu cũng tang theo và sản lượng sẽ được tăng để đáp ứng nhu cầu tăng thêm đó; (ii) trợ cấp có thể tác động đến các chi phí cận biên dài hạn theo cách bổ sung năng lực sản xuất thêm để tồn tại. Ví dụ, một công ty hoạt động không hiệu quả không thể tạo ra lợi nhuận, và vì vậy sẽ phải ngừng hoạt động trong điều kiện bình thường. Nhưng khi công ty này được hưởng trợ cấp để duy trì hoạt động, công ty không những có thể trang trải các chi phí hoạt động, mà nó còn đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất để tồn tại lâu dài. Điều đó có nghĩa là trợ cấp có thể giúp cho một công ty có thể xây dựng năng lực mới để quay trở lại thâm nhập thị trường.
Chính phủ các nước thường trợ cấp cho các doanh nghiệp nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định như (i) bảo hộ sản xuất trong nước, (ii) hỗ trợ phát triển các ngành non trẻ hay ngành trọng điểm của nền kinh tế, (iii) khuyến khích đầu tư, (iv) bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, (v) góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, (v) bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Chương trình trợ cấp là một trong các hình thức bảo hộ mới thay thế các công cụ bảo hộ truyền thống như thuế quan, hạn ngạch. Đối với nước nhập khẩu có trợ cấp, hàng nhập khẩu không trợ cấp khó có thể thâm nhập được vào thị trường của nước nhập khẩu. Đồng thời, trợ cấp cũng có tác: động khuyên khích xuất khẩu. Sản phẩm được trợ cấp, với ưu thế giá rẻ hơn số với giá của nó trong điều kiện không trở cấp, khi xuất khẩu sang nước khác, ở chừng mực nào đó, có ý nghĩa tương đương với việc nước nhập khẩu giảm thuế đối với sản phẩm đó. Như vậy, trợ cấp đã làm vô hiệu các hàng rào thuế quan, có thể làm tăng thị phần của sản phẩm này trên thị trường nhập khẩu. Mặt khác, trợ cấp có thể chuyển hướng khách hàng từ một nước xuất khẩu này sang một nước xuất khẩu khác. Như vậy, trợ cấp có thể làm “sân chơi” thiếu công bằng. bóp méo việc phân bổ nguồn lực thông qua việc chuyển các nguồn lực từ nơi có giá trị sử dụng cao xuống nơi có giá trị sử dụng thấp. Do đó, trợ cấp có thể bóp méo lợi thế so sánh và tạo ra sự phân bổ nguồn lực toàn cầu kén hiệu quả hơn.
2. Khái quát Hiệp định ASCM
2.1. Sơ lược tiến trình hình thành ASCM
Trước Vòng đàm phán Tokyo, GATT chỉ có một số quy định liên quan đến trợ cấp và các biện pháp đối kháng, được thể hiện trong các điều II, III, VI, XVI. Các quy định này, giống như tất cả các quy định khác trong GATT, chỉ được áp dụng cho thương mại hàng hóa (không áp dụng cho thương mại dịch vụ). GATT quy định khả lỏng lẻo về vấn đề trợ cấp. thừa nhận việc cho phép các biện pháp đối kháng khi các ngành cạnh tranh nhập khẩu bị thiệt hại bởi trợ cấp, và đã đưa ra những giới hạn đối với những mức thuế đối kháng tới mức có thể bù lại trợ cấp.
Trong Vòng đàm phán Tokyo vào cuối những năm 1971, các nước thành viên GATT đã ban hành bộ luật về trợ cấp (Subsidies Code. SC) gồm ba điểm cơ bản là (i) trợ cấp được cho phép rộng rãi đối với các nhà sản xuất trong nước, mặc dù nhiều nước ký kết GATT đã chấp nhận những quy định giảm việc sử dụng trợ cấp xuất khẩu, đặc biệt là đối với những sản phẩm không phải là sản phẩm thô: (ii) thuế đối kháng được cho phép nếu được tính toán là trong phạm vi trợ cấp và phụ thuộc vào mức độ tổn hại tới ngành sản xuất trong nước nhập khẩu do trợ cấp của nước xuất khẩu gây ra: (iii) nhiều thành viên đã chấp thuận rằng việc áp đặt thuế đối kháng cần tuân thủ những thủ tục nhất định để đảm bảo tính công bằng trong thương mại quốc tế.
Tại Vòng đàm phán Urugoay, đã có hai hiệp định mới có ý nghĩa quan trọng về vấn đề trợ cấp là Hiệp định về trợ cấp và thuế đối kháng (ASCM) và Hiệp định Nông nghiệp (AOA). Hiệp định về trợ cấp và thuế đối kháng đã được chào đón như một bước phát triển lớn so với những cơ chế trước đó, bởi hiệp định lần đầu tiên đã cung cấp một định nghĩa toàn diện về trợ cấp này, đặt ra những tiêu chuẩn cụ thể cho việc theo hình các cuộc điều tra để áp đặt thuế đối kháng và cung cấp một nguyên tắc đa phương về vấn đề trợ cấp có tính khả thi. ASCM là một bước phát triển quan trọng của Bộ luật trợ cấp (SC) của Vòng đàm phán Tokyo. Không giống như SC, ASCM có giá trị ràng buộc đối với tất cả các thành viên của WTO. Hiệp định này đã mở rộng một cách đáng kể các quy định trong GATT về vấn đề trợ cấp trong nước, cung cấp những hướng dẫn về loại trợ cấp trong nước nào là “không công bàng”, và khuyến khích hơn nữa các cách thức giải quyết tranh chấp trong GATT thay vì sử dụng các biện pháp đối kháng đơn phương.
ASCM được chia làm 11 phần để cập những quy định chung, trợ cấp bị cấm, các trợ cấp có thể đối kháng, các trợ cấp không thể đối kháng, các biện pháp đối kháng, các thể chế, thông báo và giám sát, về các thành viên đang phát triển, các thỏa thuận chuyển tiếp, giải quyết tranh chấp và các quy định cuối cùng. Ngoài ra, ASCM còn bao gồm bay phụ lục quan trọng là: (1) danh mục minh họa trợ cấp xuất khẩu, (2) hướng dẫn về tiêu thụ đầu vào trong quá trình sản xuất, (3) hướng dẫn xác định hệ thống thoái thu đối với sản phẩm thay thế được coi là trợ cấp xuất khẩu, (4) tính toán giá trị gia tăng trong trợ cấp, (5) tiến trình thu thập thông tin về tổn hại nghiêm trọng, (6) thủ tục điều tra tại chỗ, và (7) điều khoản ưu đãi dành cho các thành viên đang phát triển.
2.2. Một số vấn đề cơ bản trong ASCM
Để hiểu và vận dụng được hiệp định, cần phải làm rõ một số vấn đề quan trọng như trợ cấp là gì, có những loại trợ cấp nào, có phải mọi trợ cấp đều chịu sự điều chỉnh của hiệp định không và các biện pháp đối kháng đối với những trường hợp trợ cấp mà hiệp định điều chỉnh là như thể nào? Đối với các nước đang phát triển, những nước mới gia nhập như Việt Nam, có những ưu đãi gì?
2.2.1. Trợ cấp
Theo Điều 1 của Hiệp định ASCM, trợ cấp được coi là tồn tại nếu hội tụ đủ hai yêu tố: (i) có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên lành thổ của một thành viên và (ii) bên nhận đạt được lợi ích từ trợ cấp đó. Điều cần lưu ý ở đây là phải có cả hai yếu tố trên thì một hoạt động mới được coi là trợ cấp.
Đóng góp tài chính xảy ra khi (i) chính phủ chuyển trực tiếp những khoản vốn (ví dụ như cấp phát cho vay, hay góp cổ phần) cho doanh nghiệp, (ii) chính phủ chuyên hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh tiền vay) giúp doanh nghiệp, (iii) chính phủ đã bỏ qua hay không thu các khoản doanh nghiệp phải nộp (ví dụ ưu đãi tài chính như miễn thuế), (iv) chính phủ cung cấp hàng hóa hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở chung, (v) chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng trên và công việc của tổ chức tư nhân này thực tế không khác với những hoạt động thông thường của chính phủ.
Về khái niệm “lợi ích được cấp”, Điều 14 của hiệp định cung cấp các hướng dẫn để tính toán tổng số trợ cấp về mặt lợi ích của người nhận theo Điều 1 để điều tra áp đặt các biện pháp đối kháng. Theo điều này, (i) việc chính phủ góp vốn cổ phần không được coi là một lợi ích, trừ khi quyết định đầu tư có thể bị coi là không phù hợp với thực tiễn hoạt động đầu tư thông thường của các nhà đầu tư tư nhân trên lãnh thổ; (ii) việc chính phủ cung cấp hàng hóa và dịch vụ hay việc mua hàng hóa không bị coi là đem lại lợi ích, trừ khi việc cung cấp đó doanh nghiệp phải thanh toán với một số tiền ít hơn giá cả của chúng. Các quy định tương tự cũng được áp dụng với vay từ nguồn vốn của chính phủ và bảo lãnh vay của chính phủ.
2.2.2. Tính riêng biệt
Không phải tất cả các trợ cấp theo định nghĩa tại Điều 1 nêu trên đều phải chịu sự điều chỉnh của các quy định tại phần II về trợ cấp bị cấm, phần III về trợ cấp có thể đối kháng và phần V về các biện pháp đối kháng. Chỉ khi những trợ cấp đó là một trợ cấp riêng theo các quy định của Điều 2 mới chịu sự điều chỉnh của các phần nói trên. Có bốn loại trợ cấp riêng biệt: (i) trợ cấp riêng theo doanh nghiệp, tức là chính phủ trợ cấp cho một hay những doanh nghiệp riêng biệt; (ii) trợ cấp riêng theo ngành, tức là chính phủ trợ cấp cho ngành riêng biệt; (ii) trợ cấp riêng theo vùng, tức là chính phủ trợ cấp cho các nhà sản xuất trong các vùng cụ thể trong lãnh thổ: (iv) trợ cấp bị cấm, tức là chính phủ trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa sử dụng đầu vào trong nước,
Trong đó, cần hiểu rõ tồn tại cá tính riêng biệt theo luật và tính riêng biệt theo thực tế trong việc xác định tính riêng biệt trong trợ cấp. Tính riêng biệt theo luật tồn tại khi “cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp hay luật mà cơ quan đó thực hiện hạn chế rõ ràng điện các doanh nghiệp nhất định được hưởng trợ cấp” (Điều 2b). Tính riêng biệt theo thực tế được xem là tồn tại khi “dù bề ngoài không mang tính riêng biệt do các kết quả nêu tại khoản (a) và (b) Điều 2, nhưng nếu có lý do để tin rằng, trợ cấp đó trên thực tế mang tính riêng biệt, thì có thể xem xét các yếu tố khác” (Điều 2c).
Như vậy, có tới thấy là tạo nên nhột trợ và chịu sự điều chính của ASCM cần phải tồn tại đồng thời là yếu tố về sự tồn tại của trợ cá là (1) có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan trên lãnh thổ của một thanh viên và (2) bên nhận đạt được lợi ích từ trợ cáp đó và trợ cấp đó phải mang tính riêng biệt’
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng việc xác định trợ cấp và tính riêng biệt được xem xét cả trong luật và trên thực tế. Vì vậy, việc xác định trợ cấp là một quá trình khá phức tạp, xem xét đến hoạt động thực tiễn áp dụng, ngay cả khi về mặt pháp lý hoạt động đó có vẻ như không phải là trợ cấp.
2.2.3. Phân loại trợ cấp
Trợ cấp gồm (i) trợ cấp bị cấm bao gồm trợ cấp xuất khẩu (như thường xuất khẩu, miễn các khoản thuế trực thu có liên quan tới hàng xuất khẩu, phí vận tải chuyên chở trong nước đối với hàng xuất khẩu rẻ hơn so với hàng sản xuất phục vụ tiêu dùng nội địa) và trợ cấp thay thế nhập khẩu (gắn với việc khuyến khích sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu); (ii) trợ cấp được phép nhưng có thể bị đối kháng trong những tinh huống nhất định (trợ cấp có thể bị đối kháng) là những trợ cấp mang tính riêng biệt mà mặc dù không bị cấm sử dụng nhưng lại có thể bị nước khác áp dụng biện pháp đối kháng hoặc kiện ra Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại nếu như các biện pháp trợ cấp này gây ra tổn hại đến lợi ích của nước thành viên khác; (iii) và trợ cấp không những được phép mà còn được miễn đối kháng từ các đối tác thương mại khác (trợ cấp không thể đối kháng) là những trợ cấp chung phổ biến và ba loại trợ cấp mang tính riêng biệt nhưng được miễn trừ có điều kiện (gồm hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ cải tiến trang thiết bị đang sử dụng để đáp ứng các quy định mới về môi trường).
2.2.4.Tác động nghịch, tổn hại nghiêm trọng và xác định thiệt hại
Tác động nghịch: Điều 5 chỉ ra rằng không thành viên nào được sử dụng trợ cấp để gây ra tác động nghịch đến lợi ích của thành viên khác. Tác động nghịch ở đây được hiểu là gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một thành viên khác: làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ GATT 1994; gây tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một thành viên khác.
Tổn hại nghiêm trọng: Theo Điều 6, tổn hại nghiêm trọng được coi là tồn tại khi xảy ra một trong các trường hợp: (i) Tổng trị giá trợ cấp cho một sản phẩm vượt quá 5%; (ii) Trợ cáp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất: (iii) Trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của nuột doanh nghiệp’; (iv) Trực tiếp xóa nợ như xóa một khoản nợ nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ.
Tuy nhiên, sẽ không coi là có tổn hại nghiêm trọng nếu thành viên áp dụng trợ cấp chứng minh được rằng việc trợ cấp được nêu ra không làm: (i) triệt thoái hay ngăn cản nhập khẩu các sản phẩm tương tự của một thành viên khác vào thị trường thành viên đang áp dụng trợ cấp; (ii) triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu các sản phẩm tương tự của một thành viên khác từ thị trường của một nước thứ ba; (iii) hạ giá ở mức độ lớn của một sản phím được trợ cấp so với giá của sản phẩm tương tự của một thành viên khác trên cùng một thị trường hay gây ra ép giá, đè giá hay giảm doanh số đáng kể trên cùng một thị trường: (iv) tăng thị phần trên thị trường thế giới của thành viên đang áp dụng trợ cấp với một sản phẩm so với mức thị phán trung bình của thành viên đó trong ba năm trước đó .
Thiệt hại và xác định thiệt hại: Xác định thiệt hại là xác định xem các sản phẩm được trợ cấy gây ra thiệt hại gì đối với ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước nhập khẩu. Theo khoản 1 Điều 5, việc đánh giá thiệt hại phải dựa trên những bằng chứng khẳng định và với nội dung xem xét khách quan khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp và tác động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả trên thị trường trong nước của sản phẩm tương tự và tác động của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất các sản phẩm đó trong nước.
Việc đánh giá khối lượng và giá cả hàng nhập khẩu và tác động của chúng lên ngành trong nước không chỉ liên quan đến việc xác định liệu thực tế ngành trong nước có bị thiệt hại hay không, mà còn phải xem xét những thiệt hại đó có phải do các hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp đó gây ra hay không, hay là do những yếu tố khác. Khoản 2, 3, 5 Điều 15 cũng chỉ ra mối quan hệ nhân quả phải được dựa trên kết quả xem xét mọi bằng chứng có liên quan trước cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền cùng xem xét bất kỳ yếu tố nào đã biết đến ngoài việc nhập khẩu được trợ cấp nhưng cũng gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước và những thiệt hại do các yếu tố đó gây ra sẽ không được coi là do việc nhập khẩu được trợ cấp.
2.2.5. Các quy định riêng dành cho các thành viên đang phát triển
Điều 27 của hiệp định này đưa ra các đối xử đặc biệt và ưu đãi đối với các nước đang phát triển (phụ lục VII về các nước đang phát triển).
Trợ cấp bị cấm: Điều 3.1 (a) quy định cấm về trợ cấp xuất khẩu không áp dụng với các thành viên thuộc phụ lục VII. Các thành viên khác không áp dụng đến hết ngày 31-12-2012 (tức tám năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực). Không thành viên là nước đang phát triển nào được tăng mức trợ cấp xuất khẩu mà nên loại bỏ trong thời gian ngắn hơn thời hạn nêu trên nếu việc sử dụng trợ cấp như vậy không phù hợp với nhu cầu phát triển của mình.
Không giả thiết về tổn hại nghiêm trọng: Khoản 6, 1, giả thiết về tổn hại nghiêm trọng không áp dụng đối với các nước đang phát triển. Thay vào đó, bất kỳ xem xet nào về tổn hại nghiêm trọng phải được dựa trên những bằng chứng tích cực. Các quy định của phần III sẽ không áp dụng đối với việc (1) xóa nợ trực tiếp, (ii) trợ cấp nhằm bù đắp chi phí xã hội, dưới bất kỳ hình thức nào (kể cả việc miễn thu những khoản phải nộp cho chính phủ và chuyển giao trách nhiệm).
Tính cạnh tranh xuất khẩu của một sản phẩm: Tính cạnh tranh xuất khẩu của một sản phẩm được xác định là chiếm ít nhất 3.25% thị trường tượng mại thế giới về sản phẩm đó thong hai năm liên tục. Khi đó, thành viên sẽ xóa bỏ dần trợ cấp cho sản phẩm đó trong hai năm. Trường hợp này đối với một thành viên đang phát triển thuộc phụ lục V thì thời hạn xóa bỏ là tám năm.
Việc điều tra thuế đối kháng và xác định mức ngưỡng “de ninis”: Việc điều tra thuế đối kháng sẽ chấm dứt ngay khi cơ quan có thẩm quyền liên quan xác định được rằng biên độ trợ cấp đó dưới mức ngưỡng. Trợ cấp do các nước sử dụng sẽ được coi là dưới mức ngưỡng nểu (1) giá trị trợ cấp không vượt quá 2% giá trị sản phẩm (đối với các nước đang phát triển nêu trong phụ lục VII là 3%); (ii) hoặc khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp nhỏ hơn 4% tổng khối lượng hàng nhập khẩu tương tự vào nước thành viên nhập khẩu’ (đối với các nước đang phát triển nêu trong phụ lục VII là 6%).
2.2.6. Thủ tục pháp lý và các biện pháp đối kháng
ASCM thiết lập hai cách thức giải quyết vấn đề trợ cấp: (i) cách giải quyết thuế đối kháng đơn phương. Mục đích của thuế đối kháng là để tái thiết lập sân chơi cho các nhà sản xuất nội địa phải đối mặt với những sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp. Việc áp đặt thuế đối kháng nhằm làm cân bằng lại lợi thế không công bằng mà các nhà xuất khẩu nước ngoài đã được hưởng từ trợ cấp; (ii) cách khắc phục da phương được áp dụng khi một thành viện bị thiệt hại bởi việc trợ cấp của một thành viên khác muốn chương trình trợ cấp phải được chấm dứt. Hay thành viên ở một thị trường thứ ba phải chịu tác động của việc trợ cấp, yêu cầu trợ cấp phải bị đình chỉ. Trong những trường hợp này, ASCM cung cấp những thủ tục giải quyết tranh chấp đa phương.